Giải mật: Việt Cộng trả bao nhiêu nợ cho vừa lòng Trung Cộng.[1]
Từ năm 1940 đến năm 1976, Trung Cộng sản xuất quy mô các loại
vũ khí, trang thiết bị quân sự, phần lớn cung cấp toàn diện cho quân đội Việt Cộng
suốt cả chiều dài cuộc chiến tranh Việt Nam đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Theo
tài liệu Trung Cộng đã cho Việt Nam vay hơn 260 tỷ đô la không lãi tạo điều kiện
thực hiện chống Pháp và chiến tranh thống nhất miền Nam Việt Nam. Trung Cộng tỏ
lòng kiên quyết tích cực hỗ trợ chính sách chiến tranh của nước Việt Nam Cộng
hòa Dân chủ. Sau mùa hè năm 1962, các nhà lãnh đạo Trung Cộng và Việt Cộng họp
tại Bắc Kinh cùng nhau ký kết viện trợ qui ước lâu dài. Trung Quốc quyết định
cung cấp cho Việt Cộng toàn bộ trang bị miễn phí trên 1,2 triệu tay súng gồm bộ
binh, không quân, hải quân, pháo binh tình báo đặc công và nữ quân nhân trước
văn công (sau gái giải sầu).
Năm đó, Mao Trạch Đông tiếp Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên
Giáp, Mao nhấn mạnh: "Chúng ta cùng giúp đỡ lẫn nhau giữa tình bạn để chống kẻ thù
chung, chúng tôi không thể để chết người em Việt Cộng bất cứ vào lúc nào". Năm sau vào tháng Ba, phái
đoàn quân sự Trung Quốc do Tham mưu trưởng La Chí Tường đến thăm Việt Nam, thảo
luận kế hoạch "hai quân đội Trung-Việt phối hợp chiến đấu", một tháng sau Trung Cộng gửi thiết bị
vũ khí đến Việt Nam và cung cấp hậu cần, đạt đến mục tiêu thỏa thuận qui mô
quân sự chưa từng có.
Vào đầu năm 1964 Hoa Kỳ bắt đầu lên kế hoạch mở rộng tăng
viện cho Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam). Mao Trạch Đông đứng trước tình hình quân
sự mới tại Việt Nam, ông kêu gọi các nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa Dân chủ (miền
Bắc) đoàn kết chặt chẽ hơn với nhân dân Trung Quốc và hai chính phủ thường
xuyên gặp gỡ tại Bắc Kinh hay Hà Nội. Đầu tiên Hồ Chí Minh chủ động đề xuất gửi
đặc sứ BCT/Trường Chinh đến Bắc Kinh ký kết vũ khí bổ sung cung cấp cho chiến
tranh, trong cuộc đàm phán Hồ Chí Minh quyết định trao cho Trung Cộng toàn quyền
quản lý "Vịnh Bắc Bộ", đổi lấy vũ khí của Trung Quốc phải tăng cường
tung ra hết nỗ lực đổ vũ khí vào chiến trường Việt Nam. Ngày 13 tháng 8, Mao Trạch
Đông bí mật tiếp Lê Duẩn đề xuất sửa chữa lại một hoặc hai sân bay lớn tại tỉnh
Vân Nam chuẩn bị không quân chiến đấu, không thể sử dụng không quân trên đất Việt
Nam. Trung Cộng cam kết bổ sung và chuyển giao một bộ phận không quân chiến đấu,
tiếp theo chuyển giao Air Division, Simao hai bộ phận chống máy bay cho cho Việt
Cộng.
Từ phải: Hoàng thân Souphanouvong, Chủ tịch Mặt trận Lào yêu nước,
Hồ Chí Minh và Hoàng thân Suvanna Phuma Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Lào. Nguồn:
tài liệu Huỳnh Tâm.
Bộ trưởng Quốc phòng Lâm Bưu dẫn đầu một phái đoàn đến thăm
Hà Nội, công tác đầu tiên kiểm tra thực lực chiến đấu của Việt Cộng, bắt đầu
đàm phán thực hiện hoạt động chung và viện trợ quân sự thiết thực hơn. Trong
tháng mười hai, Trung Công và Việt Cộng đồng ký kết một liên minh thỏa thuận
quân sự. Trung Cộng gửi trước 300.000 quân gồm (bốn sư đoàn bộ binh, một sư
đoàn pháo binh, một sư đoàn hải quân, một sư đoàn công binh, một sư đoàn tăng
thiết giáp, và hai sư đoàn tổng hợp đặc công, quân y, thông tin, vận tải, kỹ
thuật bộ binh cơ giới và gái giải sầu). Quân đội Trung Cộng chiệu trách nhiệm
trấn thủ những điểm yếu tại miền Bắc. Nói đúng hơn nước Việt Nam Cộng Hòa Dân
Chủ trao cho Trung Cộng quản lý đất nước của mình. Do đó, quân đội nhân dân miền
Bắc Việt Nam trải rộng hành quân vào miền Nam Việt Nam, triển khai đến các phần
phía Nam. Với việc mở rộng chiến tranh, Trung Cộng bắt đầu cung cấp hỗ trợ miễn
phí, mặt khác cung cấp vũ khi trang bị cho MTDTGPMN Việt Nam trở thành quân thiện
chiến và quy mô tương đương với quân đội miền Bắc Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ, từ
năm 1962-1966 Trung Quốc gửi viện trợ cho Hồ Chí Minh hơn 2 triêu vũ khí khác
nhau, hơn 25.400 pháo binh đủ loại, 30 triệu đạn pháo, hơn 90 triệu viên đạn đủ
loại, 1400 tấn chất nổ, 2,7 triệu bộ quân phục, vải 1400 vạn mét, và một số lượng
lớn các màn chống muỗi, dép cao su, thực phẩm thiết yếu, giao thông vận tải và
thiết bị truyền tin, liên lạc. Trung Cộng tích cực rót mạnh mẽ vũ khí và quân đội
vào chiến trường miền Nam Việt Nam, hy vọng đối đấu chống lại chiến thắng Việt
Nam Cộng Hòa, Trung Cộng buộc Việt Công không được thụ động bởi chính sách viện
trợ chiến tranh không hạn chế và cả viện trợ kinh tế dồi dào cho Việt Cộng.
Ngày 03 tháng 8, Moscow công bố một báo cáo tóm tắt. Lập
trường và thái độ đối với Việt Cộng có thể không hối tiếc. Trong khi đó Việt Cộng
cần đồng minh trong khối xã hội chủ nghĩa, cho nên gian bàn tay ra xin viện trợ,
sẽ quyết định chuẩn bị chiến tranh trước mùa hè năm 1964, trên thực tế chỉ có
Trung Cộng cung cấp nhiều nhất những loại vũ khí và trang thiết bị, kể cả thực
phẩm, giao thông vận tải và các hỗ trợ khác cho Việt Cộng miền Bắc Việt Nam. Kết
quả Việt Cộng hoàn toàn phụ thuộc viện trợ Trung Quốc.
Việt Cộng thừa thãi vũ khí và tay súng.
Ngày 9 tháng 11 năm 1964, Phạm Văn Đồng và phái đoàn đại biểu
chính phủ thăm Liên Xô, cầu viện kinh tế, quân sự để đạt được một đồng thuận
nghĩa vụ Quốc tế công sản, phía Liên Xô đã ban hành tuyên bố chung, lần đầu
tiên Liên Xô cam kết cung cấp viện trợ quân sự và tài chính cần thiết cho Việt
Cộng. Đầu tháng 2 năm 1965 Thủ tướng Liên Xô Alexei Kosygin Nikolayevich thăm
Hà Nội, thảo luận về vấn đề viện trợ quân sự, Lê Duẩn ký thỏa thuận tăng cường
khả năng phòng thủ và viện trợ cho Việt Cộng, từ tháng 4 năm 1965. Lê Duẩn dẫn
đầu một phái đoàn đến thăm Liên Xô, các cuộc đàm phán với Liên Xô thành công,
xác định cụ thể, bao gồm cả số lượng viện trợ và bổ sung quân sự. Hà Nội được
Liên Xô quan tâm cung cấp một số lượng lớn những loại vũ khí phòng không. Theo ước
tính của tình báo Mỹ, trong vòng một năm Liên Xô đã cung cấp thiết bị quân sự
cho Việt Cộng hơn 100 triệu đô la Mỹ.
Năm 1968, viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam tăng đều đặn, mặc
dù tổng số tiền viện trợ của Liên Xô năm 1967 vẫn đứng sau lưng Trung Cộng,
nhưng viện trợ vũ khí quân sự cao hơn nhiều so với Trung Cộng. Năm 1968, Liên
Xô viện trợ vũ khí cho Việt Nam đã đạt đến số lượng 357 triệu rúp, tương đương
tổng số viện trợ tài chánh 524 triệu rúp. Liên Xô viện trợ cho Việt Cộng với tổng
số 50% sản lược quốc gia Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đến năm 1969 Việt Cộng-Hoa
Kỳ bắt đầu đàm phán, sau chiến tranh Việt Nam cho thấy Trung Cộng và Liên Xô đứng
sau sân khấu chính trị miền Bắc Việt Nam. Mặc dù số lượng viện trợ quân sự của
Liên Xô cho Việt Nam đã giảm, nhưng vẫn ở mức 200 triệu USD mỗi năm. Từ năm
1965 đến năm 1973, Liên Xô viện trợ kinh tế cho Việt Nam tổng cộng 10 tỷ rúp và
hơn 20 tỷ đô la viện trợ vũ khí.
Sau đó Brezhnev tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế cho
Việt Cộng, từ đó vị trí của Liên Xô thuộc vào đòn bẩy chiến tranh hiệu quả đáng
kể. Nói cung Trung Cộng và Liên Xô viện trợ càng cao nhân dân Việt Nam chết
càng nhiều cao hơn núi!
Ngày 22 tháng 3 năm 1965, tiếp phái đoàn quân sự Liên Xô
thăm Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng báo cáo thành quả chiến tranh, về cơ bản
cần viện trợ trang bị vũ khí chiến đấu và thiết bị kỹ thuật mới của Liên Xô,
tăng cường càng nhiều càng tốt, so với số lượng vũ khí Trung Cộng, Liên Xô quyết
định xây dựng cho Việt Cộng một quân đội chính quy hiện đại, cung cấp các điều
kiện và đảm bảo cho chiến tranh, theo sau Trung Cộng leo thang cung cấp viện trợ
vũ khí trực tiếp tạo ra sức mạnh mới cho Việt Cộng. Tuy rằng Trung Cộng ít hơn
so với Liên Xô, nhưng tư tưởng cách mạng Cộng sản và tinh thần chủ nghĩa quốc tế
của Mao Trạch Đông trội hơn, đẩy Hồ Chí Minh tiếp tục chiến đấu chống lại miền
Nam Việt Nam, Trung Cộng không ngần ngại nỗ lực viện trợ lâu dài. Thật vậy, đối
với Việt Cộng, viện trợ của Trung Quốc trực tiếp và kịp thời gian tính của chiến
tranh. Đến tháng 5 năm 1966, viện trợ của Trung Cộng, bao gồm bộ phận chống máy
bay, tổng cộng 23 triệu viên đạng đại pháo.
Tháng 8 năm 1966, Mao Trạch Đông gặp Hồ Chí Minh và phái
đoàn chính phủ MTDTGPMN, Mao phát biểu: "Quân đội Giải phóng miền Nam Việt Nam trong chiến khu không
có màn, áo mưa, lương thực, thuốc là, tôi thấy rằng cần gửi gấp đến đó cho họ". Trong nguồn cung cấp viện trợ cho Mặt
Trận Dân Tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tăng khẩu phần lưng thực nén, thịt lợn,
đóng hộp, cá muối, bột trứng, áo mưa, màn chống muỗi và các thiết bị y tế. Chu
Ân Lai tuyên bố: "yêu cầu viện trợ cho Việt Nam là nhiệm vụ hàng đầu của chúng
tôi cần phải thực hiện cho quý đồng chí phía Nam".
Đầu tháng 4 năm 1965, Lê Duẩn đề nghị phái đoàn chính phủ
Trung Cộng gửi thêm quân sang Việt Nam để hỗ trợ các yêu cầu chiến trường. Vào
tháng 6 Trung Cộng thỏa thuận "gửi thêm quân đội" hỗ trợ cho Bắc Việt
Nam, cho đến hết tháng 3 năm 1968 mới kết thúc, Trung Cộng viện trợ bổ sung lực
lượng phòng không cho Việt Nam, lực lượng quốc phòng xây dựng đường sắt, lực lượng
32 Biệt đội, tổng cộng 11 triệu binh sĩ đã vào lãnh thổ Việt Nam theo thừng đợt
tử năm 1964-1969. Trung Quốc cung cấp tài trợ tiền mặt cho Việt Cộng trên 180
triệu USD. Gồm súng, đạn, vỏ bánh xe, tàu, xe tăng hạng trung và xe tăng lội nước,
xe bọc thép, xe hơi, máy bay, vật liệu nổ, động cơ có dây, radio, đồng phục và
rất nhiều dầu, thuốc chữa bệnh, thiết bị y tế và các mặt hàng quân sự khác, lên
đến 8,26 tỷ nhân dân tệ, có khả năng trang bị hơn 200 triệu người.
Từ trái: Vua Cao Miên Sihanouk, Chủ tịch MTDTGPMNVN Nguyễn Hữu Thọ,
Thủ tướng chính phủ VNCHDC Phạm Văn Đồng, Chủ tịch và Souphanouvong, tại Hội
nghị nhân dân Đông Dương. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [2]
Trung Cộng cho rằng, kể từ khi viện trợ quân đội cho Việt
Nam, nay đã cải thiện chính quy khá nhiều, có khả năng an toàn độc lập. Tránh
tình trạng suy giảm chiến tranh trong mối quan hệ ảnh hưởng Trung Cộng. Mao Trạch
Đông và Hồ Chí Minh cùng đồng thái độ tinh tế đã diễn ra chính sách quan hệ
"anh em". Trong khi đó Liên Xô dần dần xa ảnh hưởng đối với Việt Cộng,
nhường chiến tranh Đông Dương cho Trung Quốc chủ động. Tuy nhiên những quốc gia
trong khối Cộng sản tiếp tục viện trợ dồi dào. Năm 1969 Hồ Chí Minh qua đời,
Trung Quốc không thể tin vào tình "anh em" mới, viện trợ quân sự cho
Việt Cộng phải kiểm soát chặt chẽ. Trong cuộc hội đàm giữa các nhà lãnh đạo Việt
Cộng-Trung Cộng, Mao tuyên bố: "Có vẻ bạn đang giàu có những nguồn nhân lực,
cung cấp vũ khí và quân đội không phải là khó khăn. Vì vậy, chúng tôi hy vọng rằng
bạn sẽ xem xét làm thế nào để sử dụng tốt hơn và thích hợp hơn nguồn nhân lực của
riêng bạn". Mao, cảnh cáo một khi tiếp nhận viện trợ và vũ khi hãy ý thức
sử dụng cho hợp lý.
1970-1972, mặc dù giai đoạn cuối cùng của chiến tranh Việt
Nam, Liên Xô vẫn đảm bảo tiến trình viện trợ quân sự theo đàm phán hòa bình để
giảm số lượng chiến tranh Việt Nam, nhưng vẫn ký kết với Việt Cộng mỗi năm (5)
năm ký lại Hiệp định viện trợ. Tháng 8 năm 1970, Liên Xô tiếp tục cung cấp thiết
bị hơn 90 doanh nghiệp, công nghiệp và các dự án khác tại miền Bắc Việt Nam. Vì
vậy, hai bên thường xuyên tổ chức cuộc họp cấp cao, nghiên cứu viện trợ nhiều
và đồng ý hợp tác chính trị theo nhịp độ chiến tranh.
1969-1971, Moscow-Hà Nội ký viện trợ và hợp tác kinh tế, đó
là việc tăng cường lực lượng quốc phòng theo thỏa thuận bổ sung đã ký vào năm
1971. Năm 1972, Liên Xô cung cấp tên lửa ED và viện trợ quân sự cho Việt Cộng.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Liên Xô không chỉ cung cấp các loại vũ khí hiện
đại nhất gồm máy bay, tên lửa, xe tăng, pháo binh, vũ khí bộ binh, đạn dược, vật
tư, thiết bị, phương tiện, các sản phẩm dầu mỏ, kim loại đen, kim loại màu, ngũ
cốc, phân bón, dược phẩm, nhà máy điện, đào tạo sĩ quan, có hơn 10.000 du học
sinh, những chuyên gia quân sự Liên Xô đến Việt Nam giúp làm chủ kỹ thuật vũ
khí hiện đại.
Ngày 03 tháng 11 năm 1977 tại Moscow Lê Duẩn và Leonid Ilyich
Brezhnev (Леонид Ильич Брежнев) ký một hiệp ước xô-việt hợp tác hữu nghị. Nguồn:
tài liệu Huỳnh Tâm.
Trung Cộng tăng cường nỗ lực viện trợ thiết bị vũ khí cho Việt Cộng.
Năm 1969, Liên Xô ủng hộ thực tế cho các nhà lãnh đạo Đảng
Lao động Việt Nam, với điều kiện mối quan hệ Việt-Xô được kiểm soát hoàn toàn
an ninh khu vực các quốc gia Đông Dương. Trong khi ấy quan hệ Trung Cộng-Việt Cộng
có ít nhiều nhạy cảm, đặc biệt quan trọng hơn đối với Liên Xô, Việt Cộng theo lối
ngoại giao "bắt cá hai tay" cùng có lợi, hy vọng sẽ kéo lại gần quỷ đạo
Việt Cộng bằng cách tăng cường chiến tranh Việt Nam, để ngăn cản họ đưa vào phạm
vi ảnh hưởng Trung-Xô. So với những năm 1960, nhở vậy ngày nay nỗ lực viện trợ
vật chất tăng cường rất nhiều.
Tháng 9 năm 1970, Chu Ân Lai tuyên bố: Về cơ bản phía Trung
Cộng phải đáp ứng yêu cầu chiến tranh của Việt Cộng, Trung Cộng phải tạo ra sức
mạnh lớn hơn để viện trợ cho Việt Cộng. Vào tháng mười một (11) Chủ tịch Mao hướng
dẫn rót thêm viện trợ vào các tỉnh miền Nam Việt Nam, tặng 2 triệu nhân dân tệ
hàng hóa và 5 triệu USD. Bộ phận ngoại thương Trung Cộng ban hành một thông báo
đến các Tổng công ty xuất nhập khẩu đã hết hàng cung cấp cho chiến tranh Việt Cộng,
bởi Việt Cộng chưa thanh toán nợ cũ từ năm 1967, nay buộc phải trả sạch nợ một
lần, Việt Cộng hứa sẽ có biện pháp để cố gắng hoàn nợ. 1971-1973, Trung Cộng thỏa
thuật viện trợ, cung cấp từng ba năm tổng số tiền của thỏa thuận viện trợ đã ký
kết gần 90 tỷ nhân dân tệ, nhằm mục đích viện trợ quân sự, viện trợ này giá trị
nhiều nhất ở hai năm cuối cùng của 20 năm quan hệ giữa Trung Cộng-Việt Cộng.
Từ năm 1965 đến năm 1976, Trung Cộng sản xuất quy mô lớn
các loại vũ khí và trang thiết bị cung cấp cho Việt Cộng. Sau khi thành công
trang bị một số thiết bị hiện đại cho lực lượng vũ trang Việt Cộng, đặc biệt
quân đội Trung Cộng chưa được trang bị hiện đại mà chỉ ưu tiên viện trợ cho Việt
Cộng. Viện trợ cho Việt Cộng đã tăng vượt quá khả năng sản xuất của Trung Cộng,
ngay cả khi sử dụng hàng tồn kho thiết bị của quân đội (PLA), thậm chí Việt Cộng
triển khai 100% chiến tranh để tiêu thụ vũ khí, một cố gắng tạo ra chiến trường
để nhận vũ khí đáp ứng nhu cầu viện trợ.
Năm 1975-1976 Trung Quốc viện trợ quân sự cho Việt Nam đã
giảm dần sau khi Việt Nam thống nhất, theo những tài liệu của Trung Quốc, viện
trợ cho Việt Nam đạt hơn 200 tỷ đô la giảm giá. (Theo "World Expo"
tài liệu có tiêu đề: Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đàm phán bí mật).
Hồ Chí Minh du nhập Cộng sản vào Việt Nam qua cửa chính chiến
tranh, đem theo thứ văn hóa thờ chủ nghĩa cá nhân của "Bác", và mô
hình giáo dục "Khổng Tử", người xưa cướp làm nô lệ, ngày nay Hồ Chí
Minh thực hiện thành công một thứ cướp chưa ai dám suy nghĩ về mô thức đồi trụy
lớn nhất của "Bác", Việt Cộng gieo rắc điêu linh đang diễn ra từng
ngày, máu chảy theo dòng lịch sử Việt Nam. Hồ Chí Minh để lại một di sản vĩ đại
trồng người hủy hoại trăm năm (100), nó đang tiếp tục bán từng phần đất nước Việt
Nam cho Trung Cộng.
Trước khi Hồ Chí Minh chết, ông ta bí mật để lại một di
chúc cho BCT/BCH TƯ Trung Cộng (Mao Trạch Đông) một di chúc không thành văn có
quá nhiều bí ẩn hệ lụy đến dân tộc Việt Nam. trong ý nghĩa văn tự đó ít nhất có
2540 từ ngữ Hán, nhưng sau khi công bố chỉ để lại những bí ẩn lâu dài cấm kỵ
khám phá. Cho đến bây giờ nó không có đầy đủ các văn kiện về Hồ Chí Minh như đã
công bố trước đây vì tất cả đều trong hồ sơ ảo và bí mật Hồ Chí Minh do một
nhóm người hoạt động gián điệp của Trung Cộng tạo ra và làm chủ di chúc, trong
số các nhà lãnh đạo Cộng sản hành đầu Trung Cộng thường nói đến "tình bạn
giả mạo sâu sắc". Nguyên văn "kết hạ liễu thâm hậu đích hữu nghị".
Có nghĩa (Hồ Chí Minh bí mật giả mạo người Việt Nam).
Bi kịch chưa từng có, Việt Nam nhận giặc làm "cha già
dân tộc".
Đã đến lúc và hy vọng nhân dân Việt Nam không bị mù lòa bởi
Cộng sản Hồ Chí Minh và nhóm Trung Cộng đầy dẫy lừa dối, bịp lộng giả thành
chân, chưa bao giờ thể hiện tính minh bạch, pha lẫn hành vi cướp lân bang, ngày
nay Hồ Chí Minh có được sự nghiệp nhờ ổ gián điệp Trung Cộng thay trắng đổi
đen, trong lý lịch Hồ Chí Minh thiếu tính lương thiện cộng với bất lương, mọi sự
kiện trá hình chim hóa thành rồng. Cho nên không ai có thể biết đích thực thân
thế của Hồ. Vì nguyên do đó, chúng tôi bừng tĩnh khám phá từ cái ác của Hồ Chí
Minh, đến nay không thể che mắt nhân dân Việt Nam bởi nguyên nhân Hồ là con đẻ
hình nộm dối trá của Trung Cộng.
Trong thực tế cho thấy Hồ Chí Minh lừa dối nhân dân Việt
Nam đã quá nhiều, chúng ta đã biết (tiểu sử của Hồ Chí Minh có những khác biệt,
thế mà vẫn tự hào cho mình cha già dân tộc). Lưu ý "Hồ... được đào tạo bởi
đảng Cộng sản Trung Quốc, khi đó mới 17 tuổi" là một đồng nghiệp với Bào
La Đình người Quảng Châu, một lưu ý khác cuối những năm 1940 Hồ tuyên bố "Tôi là cộng sản không phải
người Việt Nam".
Kết luận: Trong những báo
cáo bí mật của Hồ gửi cho Trung Cộng thường dối trá trước nhân dân Việt Nam,
ông ta có những hành động thiếu tính minh bạch, thực chất sau năm 1949 Hồ Chí
Minh liên kết chặt chẽ với Trung Cộng, ông ta chủ yếu dựa vào nguồn chính thống
Trung Cộng bao gồm cả tác phẩm ban đầu "Nhật ký trong tù". Hồ Chí
Minh chưa từng hỏi trong tâm trí của người thiếu tá Hồ Quang một chiến binh thiếu
danh dự nhưng rực rỡ về lừa dối nhờ điêu ngoa đã làm cho mọi người bị choáng ngợp
bởi sự hoang tưởng và mô tả Hồ một băng đảng mà những gì họ muốn cướp, bi thảm
hơn có nhiều người đã chết không cần thiết sau khi những cuộc gặp gỡ với Hồ.
ÿ Huỳnh Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét