ÿ Huỳnh Tâm
Tạm dịch: Trại binh lính Trung Quốc tại Lạng Sơn bị dịch
thổ tả, họ cho rằng: "Hồ Chí Minh hiện Hổ ăn thịt người "hay
"Con Hổ Hồ ăn sống Việt Nam". Nguồn: Tân Hoa Xã.
“…Quân
đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đang ở trong lãnh thổ của Việt Nam, không xa
thành phố biên giới Bằng Tường, chỉ cách bốn trạm tàu hỏa, nhưng bây giờ muốn
hát một bài ca Trung Hoa hơi khó, bởi tất cả sinh hoạt theo quân kỷ địa
phương…”
Nếu
họ Hồ không phải là người Hán tất nhiên việc đi cầu viện sẽ về tay không. Đằng
này, mỗi khi ông ta chỉ xin viện trợ có một, tức thì lại được mười. Trung Quốc
quá phóng khoáng trong viện trợ cho họ Hồ, dĩ nhiên trong tính cách phóng
khoáng ấy phải có tính toán theo quyết sách quốc gia. Cho nên sau khi cướp
chính quyền, Hồ Chí Minh đã không ngần ngại dâng phần đất Bách Sắc của lãnh thổ
Việt Nam cho Trung Quốc. Người dân uất hận miêu tả Hồ Chí Minh không khác con cắc
kè đổi màu rằn ri có đến 218 bí danh [1]. Nguồn: Tân Hoa Xã.
Ngày 10 tháng 03 năm 1967, ông Hồ cầu viện, Trung Quốc đổ quân và ồ ạt tiến vào
Việt Nam xâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong thời gian này đã có đến 3
lượt xâm nhập qui mô vượt qua "Cổng Bạn Bè", đến độ quân biên phòng
Việt Nam và người dân ở biên giới không biết được quân số là bao. Những đạo quận
đến từ hai hướng Vân Nam-Quảng Tây Trung Quốc.
Quân
binh Trung Quốc tạm dừng chân, hạ trại ở chặng đường thứ nhất tại căn cứ hậu cần
Lạng Sơn. Trên đường di chuyển những viên chỉ huy thúc quân bằng bạo lực. Binh
lính vượt qua biên giới không dừng lại bất cứ nơi nào để kịp đến trước kỳ hẹn một
tháng. Một đạo quân khác trong tình hình khẩn trương, chờ bộ phận tình báo cho
biết khoảng cách thời gian di chuyển và đang được cảnh giới. Theo kế hoạch đã định
quân binh vừa đến điểm Lạng Sơn phải phân tán mỏng lực lượng, giao công tác hoạt
động theo mật mã cá nhân. Đáng chú ý nhất là đoàn binh "Gián điệp cướp bí
mật quân sự (gián điệp kiếp quân sự bí mật) ngày mai hành quân thẳng vào các
căn cứ nóng của Việt Nam, do những tướng Trung Quốc cố vấn Hồ Chi Minh, đích
thân phối trí lực lượng.
Đích An Tân cho biết:
‒
Chiều ngày 21 tháng 4 năm 1967, tất cả quân binh đã được phân công tác theo cụm,
nửa đêm ra khỏi trại đi về hướng Nam. Lên một toa tàu hỏa tại nhà ga Bách Sơn,
tiếp tục hành trình chưa hoàn thành. Khi tàu bắt đầu chuyển bánh với tiếng còi
dài, trực chỉ về hướng Hà Nội. Bỗng dưng người đội trưởng đường sắt hối hả chạy
đi tìm cấp trên báo cáo khẩn, tôi đoán, chắc chắn chuyển quân bí mật trong đêm
đang có vấn đề rắc rối nào đó! Một hồi lâu người ta chuyền miệng:
‒ Nửa
đêm trong trại, phát giác bệnh dịch thổ tả, số người chết trên 41 binh sĩ, buộc
phải cô lập đoàn binh, chưa ra trận đã bị binh hao tổn tướng!
Tin
dịch thổ tả 2 giờ trước chưa nguôi, lại có tin loan nhanh, Sinh viên thủ phủ
Hoàng Phố Vân Nam biểu tình, kêu gọi nhà nước Bắc Kinh bải bỏ động viên nghĩa vụ
tại chiến trường Việt Nam. Nhà nước Trung Quốc không ngần ngại dùng bạo lực đàn
áp, những tiền lệ này, hầu hết trên đất nước Trung Quốc đều đầy rẫy ở khắp mọi
nơi, đặc biệt một tháng trước đó, Bắc Kinh tuyên bố người dân được hưởng quyền
tự do "bông hoa lớn", tuy nhiên người dân khả nghi, cho rằng lời nói
trong cửa miệng của đảng, không khác "cỏ độc".
Mao Trạch Đông cổ xúy sinh viên đại học Thanh Hoa nhảy
vào cuộc thi đua "Triệu anh hùng" sau đó mới phát động chiến dịch
"Cách mạng Văn hóa". Trên tay của họ nào là dao phay, giáo, thương, gậy
gộc v.v… nổi dậy với khẩu hiệu "Ba đánh một đốt". Không bao lâu phong
trào này tác động đến những đại học khác, họ tấn công cơ quan đại học, công sở.
Tiếp theo những cuồng tín cộng sản nổi loạn, bạo lực khắp thành phố lớn, nhỏ. Hồng
vệ binh nắm bắt bất cứ điều gì không thích đều tự do đập phá. Nguồn: Tân Hoa
Xã.
Mùa
Hạ, Bắc Kinh (1967), xảy ra sự cố sinh viên trên tay dao phay, giáo, thương, gậy
gộc v.v… Lãnh đạo cộng sản phát động, nhưng lại không dự liệu trước sự tàn phá
đất nước. Người dân không hiểu những khẩu hiệu "Ba đánh một đốt" phát
xuất từ đâu và chuyện gì đang lôi cuốn sinh viên, thanh niên xuống đường. Người
dân Trung Quốc phải chờ đợi Mao Trạch Đông tuyên bố, mới biết mặt trận
"Cách mạng Văn hóa" đang khởi động. Mao Trạch Đông cổ xúy sinh viên,
thanh niên làm cách mạng "Triệu anh hùng", "phong cách mới".
Chỉ vài ngày khai trương đã chết 720 người dân tại Vũ Hán. Chính Mao Trạch Đông
đưa tay nối dài cho sinh viên đứng lên "Ba đánh một đốt". Nửa tháng
sau phong trào bùng phát cao hơn lửa, cháy cả toàn quốc. Xã hội liên tiếp bất ổn
và nghiêm trọng.
Mao
Trạch Đông khéo hứa hẹn, ban bố quyền lực cho tuổi trẻ, từ đó họ đươc kích
thích nâng cao cuồng nhiệt. Khó có thế lực hay uy tín nào dám đứng ra cản trở
"Cách mạng Văn hóa", tất cả lãnh đạo trung ương đảng cộng sản Trung
Quốc cau mặt lạnh hơn vũ khí, nhìn đám tuổi trẻ tan vỡ vì quá sống vội, tin lời
cộng sản Tàu. Cho
đến nay người dân Trung Quốc không quên một thập niên cay đắng của đoàn quân học
đường, đã chia thành nhiều tổ chức đấu tố lẫn nhau. Trong lịch sử Trung Quốc
chưa từng xảy ra việc này, như tổ chức "Phái gửi hoa", "Cỏ độc lớn",
ngoài ra còn có tổ chức độc lập "Hương hoa lớn", hoạt động trên lãnh
vực cả nước, đưa đến vở kịch làm sạch xã hội Trung Quốc, cuối cùng đất nước sống
trong mớ hỗn độn, chỉ biết cờ xí tung cao, hô khẩu hiệu "Bảo vệ Trung ương
Đảng", "Bảo vệ Chủ tịch Mao", "Bảo vệ dòng cách mạng vô sản".
Trong thời gian này, Hồ Chí Minh đã được tập huấn tại Vân Nam về mô hình phát động
chiến dịch "Cách mạng Văn hóa Việt Nam", tuy nhiên chiến dịch này
không thực hiện được, bởi vì toàn bộ lực lượng quân sự đều đổ hết vào chiến trường
để tiến chiếm và cướp miền Nam Việt Nam.
Mao
Trạch Đông chỉ thị vũ trang cho hai lực lượng "Triệu anh hùng" bất đắc
dĩ và "Cách mạng Văn hóa". Họ được phân phối vũ khí không hạn định,
càng ngày phát triển mạnh. Họ sử dụng cả súng pháo, xe tăng, xe bọc thép, tàu
chiến, máy bay. Những ngày đầu của phong trào, riêng tại Quảng Tây người dân tự
đứng lên đối kháng, chống lại lược lượng "liên minh đề cập" của sinh
viên, mỗi ngày tử vong trên 422 thường dân.
Hồng vệ binh thực hiện "Ba đánh một đốt". Nguồn:
Tân Hoa Xã
Đích
An Tân tiếp tục cho biết: Chúng tôi đang ở trong lãnh thổ Việt Nam không đến nỗi
căng thẳng, được lệnh không di chuyển quân đội vào sâu Việt Nam, ở lại đây bao
lâu chưa biết, thời gian này lãnh đạo, cho tập hát những bài cách mạng Việt Nam
v.v... Đúng lúc đó dịch thổ tả ngừng hoành hành, nó cũng biết sợ "Ba đánh
một đốt", bệnh cấp tính hiểm nguy đã bị chận đứng. Trong trại, trạng thái
binh lính trở lại bình thường. Ngày hôm đó chúng tôi được thưởng thức hương vị
sợ hãi máy bay của Mỹ, khốn khổ nhất lúc nào cũng đối mặt với thanh kiếm thép
đang nhả bom đạn Mỹ, có thể bị giết chết bởi một viên đạn lạc, biến thành người
tử vì đạo (vì đảng), cho nên chúng tôi nấp ở dưới chiến hào, thường huýt sáo
làm tín hiệu báo cho nhau biết còn sống hay đã chết.
Lúc
này trong trại, tâm trạng quân binh gia tăng lo lắng, bối rối hơn, mọi người
nơm nớp sợ hãi lực lượng tân binh sinh viên, nếu họ tự biến thành "Ba đánh
một đốt", khó lường được trước sự diễn biến! Tuy nhiên vẫn dè chừng sự cuồng
nhiệt phi lý của tuổi trẻ. Cho nên lãnh đạo khẩn trương thay đổi phương thức
sinh hoạt trong ngày. Hôm ấy các cửa ra vào giao thông hào được mở rộng lối đi,
không còn ngăn cách giữa những đơn vị mới cũ, dù biết lệnh mở cửa trại không
phù hợp trong thời gian cấm trại. Bộ chỉ huy trại lên kế hoạch tổ chức ca hát,
sinh hoạt ngoài trời làm dịu đi mọi căng thẳng "Cách mạng Văn hóa", bắt
đầu những bài hát Việt Nam.
"Việt
Nam và Trung Quốc,…"
Thứ
đến quân đội miền Nam Việt Nam:
Giải
phóng miền Nam,......" và "Quân ca,…"
Họ
tung hô Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông, thay cho hình thức thúc dục hiếu chiến.
Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đang ở trong lãnh thổ của Việt Nam,
không xa thành phố biên giới Bằng Tường, chỉ cách bốn trạm tàu hỏa, nhưng bây
giờ muốn hát một bài ca Trung Hoa hơi khó, bởi tất cả sinh hoạt theo quân kỷ địa
phương, thậm chí một số bài nhạc treo tại bãi đậu xe hay trong trạm ga tàu hoả
để cho mọi người lính có thể hát lúc nào cũng được, dường như nó đã trở thành ấn
tượng trại quân nhạc.
Để bảo
toàn bí mật chiến tranh tại Việt Nam, Bộ tư lệnh chiến trường Đông Bắc điều động
binh mã, đã lên kế hoạch hành quân về phía trước, và đang chuẩn bị tiếp đón Hồ
Chí Minh đến Bách Sắc định ngày khởi binh. Khi ấy người lính ngỡ rằng chiến
tranh Việt Nam vẫn còn ở phía sau. Nếu không phải là người trong cuộc, ai đó chắc
chắn sẽ ngạc nhiên vì không thấy bận rộn nào đáng kể trong quân ngũ.
Hôm
sau người lính nhận được lệnh ăn mặc đồng phục quân đội màu xanh cỏ không có nắp
huy hiệu trên ve áo. Bộ chỉ huy tập hợp toàn trại đón một nhân vật trong bài ca
có tên Hồ Chí Minh. Ông ấy bí mật đến từ Thài Nguyên, di chuyển bằng tàu hỏa,
ông viếng thăm và ủy lạo chiến binh Trung Quốc.
1957, Hồ Chí Minh, bí mật di chuyển bằng tàu hỏa, đến Lạng
Sơn ủy lạo binh sĩ Trung Quốc. Nguồn: Hoa Nam. [2]
Chỉ
một tuần, quân đội Trung Quốc thay da, đổi thịt biến thành người lính của đảng
cộng sản Việt Nam. Chúng tôi đứng nghiêm chỉnh, nghe Hồ Chi Minh phát biểu:
‒
Ngày mai, quý đồng chí lên đường, chính thức hoạt động bí mật ở nước ngoài, hãy
hết mình vì Tổ quốc (Trung Quốc), chính quý đồng chí là cấp lãnh đạo tương lai
của đảng là người đại biểu của nhân dân, bắt đầu vào cuộc chiến mới, cải trang
đồng phục màu xanh cỏ cho đến huy hiệu đều tạm thời. Quý đồng chí hãy để lại
trong tim của mình là dân tộc Trung Hoa, hình ảnh anh hùng Quân đội Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc hãy thể hiện trong cuộc chiến tại Việt Nam để bảo vệ đất nước
Trung Quốc, tôi cũng thế, và hy vọng quý đồng chí mau chóng thích nghi chiến trận.
Chúc trăm trận chiến thắng lẫy lừng.
Tiếng
vỗ tay thưa thớt, hầu như không tán đồng lời phát biểu của họ Hồ! Có người lính
quá lỗ mãng, lại chửi tục: "胡志明性交我置于死地-
Hồ Chí Minh tính giao ngã trí vu từ địa - (đ.m. Hồ Chí Minh đưa tao vào chỗ chết).
Hồ Chí Minh muốn thu phục nhân tâm còn hứa thêm: "Quý đồng chí hãy an tâm
hai ngày sau tôi thành lập Quân Bưu, từ đây quý đồng chí sẽ liên lạc được với
gia đình". Tuy nhiên người lính vẫn còn nghi ngờ, bởi lời hứa của họ Hồ
chưa được Quân Ủy trung ương (CPC) và Bộ chính trị đảng cộng sản Trung Quốc chi
viện. Nếu Quân Bưu thuộc Bộ chính trị Trung Cộng thu nhỏ của bốn tên Vi-Hồ-Trần-La
[3] lại càng không có gì bảo đảm tốt, có thể khi thư đi không hồi âm, do nơi
nào đó của Quân Bưu quản thúc thư, họ thường viện cớ vì nhu cầu an, ninh, bảo mật
cho lính.
Đời
quân ngũ đã nhiều lần bị rơi vào quỉ kế của đảng công sản, lần này xem ra lính
có lý chính đáng để ngờ vực, bởi Quân Bưu qua lời hứa của Hồ Chí Minh đã cho thấy
hiệu năng kém cỏi của nó. Lý do là vì đã có vô số trường hợp thư đi, thư đến
ròng rã nhiều năm. Lắm khi người nhận thư chỉ còn lại "mã lạng" mất dấu
cả mộ bia quân số. Thứ nữa cộng sản chú trọng và dùng Quân Bưu để nhằm tô điểm
"vẻ đẹp" cho quân đội. Quân Bưu còn là ổ điếm chiến lược, chiến thuật
của Quân báo.
Cùng
ngày, Hồ Chí Minh khao quân, chiêu đãi bữa ăn cuối cùng tại Trung tâm Bách Sắc.
Tàn cuộc mọi người lính lặng lẽ đi nghỉ ngơi, hẹn sau khi màn đêm buông xuống
toàn bộ quân binh sẵn sàng ba lô lên đường. Họ hy vọng chiến tranh Việt Nam sẽ
sớm kết thúc để về đoàn tụ với gia đình, không ai nghĩ mình "một đi không
trở lại".
Trong
đêm những đoàn binh nối tiếp nhau theo từng dòng di chuyển nhiều hướng khác
nhau, đoàn quân từ từ biến vào bóng đêm. Đột nhiên, có tiếng súng nổ của
"bộ sưu tập" (lực lượng quân báo) nhanh chóng có những tiếng huýt sáo
từng hồi, báo động trở ngại, phải chờ giải phóng lộ trình. Tất cả những người
lính nghe tiếng huýt sáo tức thì trong tiềm thức tự ứng phó nhanh chóng, chờ đợi
mật khẩu ban hành để tiếp tục tiến quân.
Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đang trên lộ
trình tiến đến tỉnh Thái Nguyên Việt Nam, tất cả theo lệnh của Hồ Chí Minh, đã
phối trí địa chỉ mật cho quân trú phòng, theo mật mã. Nguồn: Hoa Nam
Trên
đường di chuyển, chúng tôi nhận được mật khẩu lệnh, truyền xuống cho Ban chỉ
huy, sau đó truyền mỏng vào hàng ngũ binh sĩ, mật khẩu đến phải tuân hành tuyệt
đối:
‒ Đội chú ý "tập hợp cho tiến quân".
‒ Địa
phương chú ý! "Hướng Hữu khán Tề-向右看齐".
‒
Báo cáo, "một hàng tập hợp hoàn chỉnh-集合完毕".
‒
Báo cáo, "hai hàng tập hợp hoàn chỉnh ". "......"
[4]
Những
đoàn quân di chuyển nhanh, đến điểm hẹn, ngã ba đường làng tương đối rộng, nơi
quân xa đã đậu dọc dài theo tầm nhìn. Quân báo đã xem xét cẩn thận, xe được cải
trang vải lều, lưới bông màu rừng, người ta thường gọi xe tải "giải
phóng", binh lính trực tiếp ngụy trang gắn nhánh cây, cành lá bao phủ khắp
xe. Nhiều đêm, vẫn tiếp tục với những hình bóng binh lính đen, di chuyển đến
khu rừng quân xa đang chờ đợi. Họ âm thầm không để lại dấu vết ánh sáng rộng lớn
trong rừng hay nơi sa mạc, lặng lẽ không phát ra âm thanh, luôn luôn thận trọng
tắt tất cả các dụng cụ chiếu sáng, thậm chí không được nhả khói thuốc. Không
gian này báo hiệu khẩn trương, trước mặt cuộc chiến gần như đang diễn ra.
Đoàn quân xa ngụy trang cây rừng chuyển quân Trung Quốc
thẳng hướng Hà Nội. Nguồn: Quân Ủy (CPC)
Một
đèn pha báo hiệu xuất phát, nó xuyên thủng bầu trời đêm đen, quân xa bắt đầu
lăn bánh, bỏ lại sau lưng toàn cảnh rừng gìa. Qua tiếng gầm rú của quân xa,
đoàn quân xa di chuyển dọc theo con đường quanh co. Chúng tôi thấy phía sau giống
như một con rồng khổng lồ. Vài giờ sau, ánh sáng bừng lên bầu trời, khi ấy hai
bên núi tỏa sáng rực rỡ, chúng tôi đã đi quá xa thị trấn biên giới Lạng Sơn.
Tôi
cảm thấy đang rơi vào tình trạng ảm đạm, và xung quanh mơ hồ đứng trước làng
sóng người với những lá cờ đỏ bay, loa phóng thanh ban hành khẩu hiệu chiến
tranh, nào là "chửi thề", công trích quân địch, ca ngợi quân cách mạng
phe ta, hình dung ở đây có vẻ diễn ra cuộc "Cách mạng Văn hóa" đang
trên đà cơn bão, thổi vào mọi ngóc ngách của Trung Quốc, và loan đến Việt Nam,
một đất nước của mọi diễn biến chiến tranh.
Tên
biệt kích Cầm Trứ nước mắt vẫn đong đầy, miệng lại nói:
‒
Trái tim tôi, âm thầm nói lời "Tạm biệt, quê hương, và hy vọng có ngày về
gặp lại người thân, cũng có thể xứ người sẵn sàng làm mất dấu hiệu ngày trở lại
quê hương, ôi sao quá mong manh!"
Bây
giờ tên biệt kích Cầm Trứ chỉ còn nhớ một kỷ niệm cuối cùng tại đường biên giới
giữa Trung Quốc và Việt Nam, có một cổng thành cao tuyệt vời, nơi biên giới nổi
tiếng có tên "Ải Nam Quan" (ý nói cổng này của nước Nam Việt). Vào thời
Nhà Minh thành lập thị trấn lịch sử gọi là "Ải Nam Quan". Đứng trước
kiến trúc Ải, xây dựng kiên cố, thành và ba tầng tòa nhà bằng đá, mỗi bao lơn
xung quanh một lan can, do đó, tháp cao dường như hạt dẻ của nước, phong cách
hùng vĩ, còn thêm một số cửa song sắt, đặc biệt trên cửa Ải có một tấm bảng bằng
đá cẩm thạch khắc "Ải Nam Quan".
Vào
thời cộng sản Hồ Chí Minh, Trung Quốc đề nghị đổi tên là "Mục Nam
Quan" vào năm 1953. Sau đó Trung Quốc không thỏa mản với cụm từ trên, một
lần nữa họ Hồ tự ý đổi tên thành "Cổng hữu nghị vào ngày 05 tháng 3 năm
1965. Về thực chất, họ Hồ đã dâng hiến ải này cho Trung Quốc, để đổi lại, ông
ta được hưởng tài sản chiến tranh do Trung Quốc ban cho.
Ngày nay, trên cửa Ải có một tấm bảng đá cẩm thạch khắc
ba chữ (Cổng Hữu nghị) và một bảng vàng ghi lại chiến công của Hồ Chí Minh,
dâng hiến cho Trung Quốc vào ngày 05 tháng 3 năm 1965. Đích thân Nguyên soái Trần
Nghị đề bút, viết trên bảng ba chữ (Cổng
Hữu nghị) với đường nét ngạo nghễ của Mao-Hồ dán trên đầu dân tộc, Tổ quốc Việt
Nam [5]
Nguyên soái Trần Nghị, Phó Thủ tướng của Hội đồng Nhà nước
Trung Quốc. Nguyên tác giả bút pháp cho ra đời ba chữ lịch sử (Cổng Hữu nghị)
được khắc vào đá cẩm thạch. Nguồn: Quân Ủy (CPC)
Ngoài
ra, ở trung tâm tháp, người ta treo một bức chân dung khổng lồ của Mao Trạch
Đông, ở điểm cao nhất trên đỉnh tháp, người ta treo lá cờ mạ ánh sáng, dù trong
bầu trời đêm cũng vẫn thấy, kích thước của lá cờ bằng nửa sân bóng đá.
Bây
giờ Ải Nam Quan của Việt Nam đã biến thành quốc sử của Trung Quốc, một chiến
lũy biên giới trọng yếu chỉ còn hơn ba chữ (Cổng Hữu nghị). Nằm trên đầu núi,
có một con đường xuyên biên giới, qua ô cửa thành biên giới Việt-Trung, ngày
nay nó đã xa xăm đối với dân tộc Việt Nam.
Nhớ
tới "Ải Nam Quan", người Việt phải đau lòng, thắt ruột. Từ ngày có đảng
Cộng sản, cửa ngõ biên thùy Việt Nam đã phải cải tên đổi họ đến hai lần, chính
xác hơn: Công trình xây dựng lịch sử của Việt Nam đã bị phá hủy trong tay đảng
Cộng Sản. Dân tộc Việt Nam đã bị đảng cộng sản Trung Quốc đô hộ và thống trị,
đang chết từ từ trong sự hèn hạ của đảng cộng sản Việt Nam, bởi họ mưu cầu
"tao sống, mày chết".
ÿ Huỳnh Tâm
Tham
khảo:
[1]
Hai trăm mười tám (218) bí danh, biệt danh, bút danh của Hồ Chí Minh (Huỳnh
Tâm).
[2] Người viết bài này tặng đảng Cộng Sản và kính biếu nhân dân Việt Nam tấm ảnh
lịch sử của Bác Hồ.
[3]
Vi Quốc Thanh, Hồ Chí Minh, Trần Canh, Lã Quí Ba.
[4]
Mật khẩu 1: tập hợp-集合. 2: Hướng
Hữu khán Tề-向右看齐. 3: một
hàng tập hợp hoàn chỉnh - 集合完毕".
4: hai hàng tập hợp hoàn chỉnh - 排集合完毕".
[5]门洞上方镌有一块大理石匾 (Môn động thượng
phương tuyên hữu nhất khối đại lí thạch biền), 匾上是陈毅同志亲笔题写的“友谊关”
(Biền thượng thị trần nghị đồng chí thân đích đề tả đích hữu nghị quan).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét