Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông đầu tháng 10 năm 1965. Nguồn: Tân Hoa Xã.
“…tại thời điểm của tôi bị đông viên vào Quân đội Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc là điều không cần thiết, bởi lúc đó họ huy động toàn
lực lượng trẻ học đường, chúng tôi mặc quân phục, đội mũ không biết làm cách nào
cho tiện, người ta gọi quân "con tin". Mục đích của Mao đốt hết tuổi
thanh xuân, ...”
Chúng ta cùng nhau khám phá một tài liệu hiếm có về việc
"Trăm năm trồng người" của Mao Trạch Đông chỉ thị cho Hồ Chí Minh thực
hiện tại Việt Nam. Nhờ bộ máy tuyên truyền của Hoa Nam khuếch đại, Hồ Chí Minh
hăng hái thôi thúc, đẩy mạnh việc giáo dục thiếu nhi lên hàng đầu, xem đó là một
chân lý hoàn hảo, một chiến lược dài hơi trong việc Hán hóa Việt Nam, và từ đó
âm thầm đưa đất nước Việt Nam mỗi lúc một xa dần đặc tính dân tộc của mình.
Ngày nay Việt Nam đã đi vào hệ lụy phá sản dân trí khôn lường. Hồ Chí Minh thừa
biết sự kiện này vì chính đương sự đã cố ý đong đưa ý tưởng đẩy dân tộc Việt
vào tử huyệt vô vọng.
Khẩu hiệu “Vì lợi ích mười năm trồng cây/ Vì lợi ích trăm
năm trồng người” xuất hiện theo hướng dẫn của Cộng Sản họ Mao. Cùng lúc lấy thời
gian che khuất dân trí Việt Nam, bằng cách đẩy mạnh chiến tranh. Một lần nữa họ
Hồ hối hả mở cửa Ải Chi Lăng, và các cửa biên giới khác, mời đảng Cộng sản
Trung Quốc tràn vào lãnh thổ bằng đường bộ, đường biển v.v… hầu động thủ hỗ trợ
cho Hồ Chí Minh thực hiện tốt mệnh lệnh "Tiêu diệt kẻ không đồng chủng"
(Sát tử nhân phi nhất dạng đích ứng biến) do nhà kiến trúc Mao Trạch Đông phát
động, từ Trung Quốc sang đến Việt Nam.
Vào đầu tháng 10 năm 1965, Hồ Chí Minh đứng đầu Đảng Cộng Sản,
dẫn dắt chính phủ Việt Nam đến Bắc Kinh, tiếp nhận chỉ thị và đề nghị Trung Quốc
viện trợ khẩn cho Việt Nam. Liên Xô theo dõi giải mã tập tin: "Thực sự
Trung Quốc và Việt Nam hai kẻ thù vô lý cớ (mĩ tô đương án giải mật: Trung Việt
lưỡng quốc phân mục thành cừu địch chân chánh nguyên nhân), chính Liên Xô cũng
để mắt tìm hiểu nguyên nhân nào Trung Quốc tổ chức viện trợ toàn lực cho Việt
Nam, gồm một lực lượng lớn quân đội tham chiến, phương tiện chiến tranh, đạn dược,
tên lửa, phòng không, pháo binh, kỹ thuật, máy rà phá bom mìn, và cả hậu cần
quân dụng, tất cả đi qua đường sắt Ải Chi Lăng, theo ký kết chương trình viện
trợ "3 năm" và kết thúc vào tháng 3 năm 1968. Trung Quốc cho biết tổng
cộng 32 triệu binh sĩ tham chiến ! Thời ấy miền Bắc Viện Nam với dân số 25
triệu. Chi phí chiến tranh trị giá 42 tỷ USD, một con số vay nợ khổng lồ, cao
vòi vọi hơn trăm lần viện trợ từ 1940-1965, kể cả Điện Biên Phủ. [1]
Trung Quốc có mặt trên đất nước Việt Nam muốn tránh tiếng với
quốc tế, thu mình tham chiến sau lưng quân đội Việt Nam, nhưng thực sự bên
trong quân đội Trung Quốc tung hoành tại chiến trường Việt Nam, một chủ lực
chưa từng thấy trong lịch sử viện trợ của thế giới. Quân đội Trung Quốc bảo vệ
vùng trời và biển Bắc, xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh và đường giao thông vận tải
từ Vân Nam, Quảng Tây Trung Quốc đến miền Bắc Việt Nam. Quân đội Trung Quốc lấy
máu cứu mạng sống Cộng Sản của Hồ Chí Minh và giữ tiếng cho họ Mao. Quân đội
Trung Quốc tử vong lên đến 123 nghìn người, bị thương 180 nghìn người. Việt Nam
phải trả mọi chi phí bồi thường theo quân hàm cho mỗi chiến binh Trung Quốc, tử
vong từ 20-400 ngàn USD, chiến binh bị thương tàn phế bồi thường từ 30-500 ngàn
USD, tình hình chiến trang leo thang con số tỷ USD cũng theo chiều gió tăng bổ
nhanh chóng. Mọi thanh toán theo qui định ký kết giữa Hồ và Mao tại Bắc Kinh,
vào ngày 12 tháng 10 năm 1965. [2]
Trung Quốc trúng thầu bao cấp nguồn viện trợ, từ trái
sáng đến đạn cốt, tên lửa và bao cả chủ lực tác chiến cho chiến trường Việt
Nam, với sự viện trợ của các nước trong khối Cộng Sản Quốc Tế. Nhờ có Trung Quốc,
đảng Công Sản Việt Nam gỡ được những khó khăn đưa quân miền Bắc xâm nhập vào miền
Nam Việt Nam. Hồ Chí Minh chấp nhận bỏ ngỏ hậu phương miền Bắc, huy động quân đội
Trung Quốc làm lực lượng bảo vệ xã hội Chủ Nghĩa của Hồ, chỉ vì muốn cướp chính
quyền miền Nam Việt Nam giả hiệu dùng chiêu bài "đánh xâm lược Mỹ".
Ngôn ngữ của đảng Cộng Sản lắm phương mị dân với bộ máy tuyên truyền dối trá,
và sử dụng kỹ thuật bạo lực để che át và ngăn trở suy nghĩ của người dân.
Tuy nhiên ở thời điểm này Hồ Chí Minh cũng có những nguy khốn
riêng về nhân lực và gặp nhiều trở ngại, ít có hy vọng sớm chiến thắng. Do đó Hồ
vay nợ chiến tranh cao ngất trời, phải nhượng những phấn đất cho Trung Quốc với
tổng số trên 14 làng xã từ Tây Bắc qua Đông Bắc. Trung Quốc rất hài lòng với
phương cách trả nợ của người vay nợ, đổ quân ào ạt vào Việt Nam, theo công bố
tháng 11 năm 1968 của nhà nước Trung Quốc.
Trung Quốc lại có tham vọng cao xa hơn nữa là làm ông chủ
nhà tại Việt Nam, lấy dân tộc Việt Nam làm nhân cho cái bánh Cộng Sản để rồi bọc
bên ngoài một vỏ sáp ngăn chặn Mỹ đánh bom miền Bắc Việt Nam. Trung Quốc lên tiếng
trước sẵn sàng đàm phán để chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Tháng 7 năm 1970,
Trung Quốc hứa với Hoa Kỳ sẽ lui binh hồi quốc. [3]
Trung Quốc ồ ạt xua quân đổ bộ vào sông Hà Khẩu Lào
Cai Việt Nam, đêm 21 tháng 10 năm 1965. Nguồn: Tân Hoa Xã.
Đêm 21 tháng 10 năm 1965, trời vừa rạng sáng, màn sương còn đen phủ xuống biên
giới, bên bờ sông Hà Khẩu, Lào Cai Việt Nam-Trung Quốc nổi lên những tiếng xe
chạy, tiếng chân người rảo bước, tiếng xích sắt của xe thiết giáp, ầm ì đi qua
thôn làng Việt Nam, vang động khắp nơi làm rung chuyển dậy đất, tiếng ồn ào của
đoàn quận Trung Quốc tiến vào Việt Nam, như nước lũ phá vỡ đê điều, không có một
biên phòng nào lên tiếng bảo vệ đất nước.
Người dân biên giới càng ngỡ ngàng hơn, trong buổi sáng
sương còn tỏa mờ mờ, trước sân nhà đã có hàng trăm nghìn tấm gỗ lót đường rày,
hàng chục nghìn đường rày thép lạnh lùng, chịu đựng bức xạ khí hậu của mặt trời
phía Nam. Đoàn quân Trung Quốc đang nối thêm đường rày để tiến sâu vào lãnh thổ
của Việt Nam. Thấy toàn cảnh quân đội Trung Quốc hoạt động không khác nào một bức
tranh rừng người khổng lồ, từ xa với đường nét trải dài quanh co, đang làm cho
đôi mắt người Việt choáng váng, gây nên cảm giác thất vọng về Hồ Chí Minh giữ
trong lòng không thốt nên lời. Con tàu vận chuyển vũ khí, quân dụng, binh lính
nối đuôi nhau trên tuyến đường sắt dài vô tận, một nửa số binh lính di chuyển bằng
đường bộ, đường thủy, họ hăng hái có vẻ đang khởi đầu sở hữu đất nước Việt Nam.
Ba mươi bốn (34) quân đoàn Trung Quốc đến từ Hoàng Phố, phần
lớn trang bị quân phục áo giáp cỏ xanh, một số quân khác mặc đồng phục màu xanh
hải quân, còn lại mặc đồng phục cỏ xanh, không cần phải nói họ là những lực lượng
không quân, tất cả đều giả trang quân phục theo Cộng Sản Việt Nam của Hồ Chí
Minh. Nói chung quân phục phù hợp với quân đội Việt Nam, khó phát hiện linh Hán
hay Việt, bởi trên mũ, áo không đeo huy hiệu (pin). Kỷ luật của trại lính có vẻ
lộn xộn, điều này cho thấy đây là một lực lượng tân binh. Thật vậy, tất cả đơn
vị khác nhau của quân đội giải phóng Trung Quốc (PLA) được tuyển tại Vũ Hán. Thực
chất thanh niên nhập ngũ theo chỉ thị hơn là tình nguyện hay nghĩa vụ. Họ ra
chiến trường để lại những người thân yêu, rời bỏ quê hương trong ý tưởng bất phục.
Trung Quốc hối hả thiết lập những đường sắt tại biên giới
Lào Cai, Cao Bằng, Mông Cái, đến khi Việt-Trung chiến tranh vào ngày
17 tháng 2 năm 1979, đồng bào mình chạy giặc qua cầu biên giới còn thấy vết
tích xưa của 3 năm (1965-1968) "môi hở răng lạnh". Nguồn:
Tân Hoa Xã.
Trung Quốc xua quân đợt hai, vào ngày 16 tháng 3 năm 1968.
Hạ trại, đóng quân tại Lào Cai, Cao Bằng, với một số quân 1,2 triệu quân, chuẩn
bị lao vào đường mòn Hồ Chí Minh.
Trại binh Trung Quốc tại Lào Cai
Việt Nam. Nguồn: Tân Hoa Xã.
Phong Kinh Nam (峰京南), một cựu
chiến binh tham chiến tại Việt Nam năm 1965 tâm sự:
‒ Nói chính xác hơn, chúng tôi không còn con đường nào chọn lựa cho hạnh
phúc cá nhân, tất cả đều xa lạ đối với chúng tôi, vì vậy Bắc Kinh tuyển binh lần
này có dấu hiệu bí ẩn, để mọi người không trở tay kịp hay kiểm tra những cám dỗ
binh nghiệp, ngoài ra còn có, những nhóm tân binh, học sinh Vũ Xương, Thủy Quả
Hồ. Cùng trên đoàn tàu quá tải, sườn xe làm bằng thép nặng, sườn che mưa gió
làm bằng ván thô, cấu trúc không phù hợp với đường sắt Tây phương, đoàn tàu hỏa
kéo nhau di chuyển như con voi ỳ ạch.
Trung Quốc mượn đất và người Việt để ra quân theo kế hoạch
làm giá với Hoa Kỳ thay vì Đài Loan, cho nên dưới sự chỉ huy của cán bộ có mật
khẩu (Thính khởi lãi ngận cơ quái - 听起来很奇怪) ám chỉ
đường dài chiến trường chia từng phần, phân phối cho các cửa khẩu ngăn chận đào
thoát. Đôi khi tân binh diễu hành để trương thanh thế trật tự, làm trò khỉ cho
phía trước đoàn quân học tập làm theo, đúng là bọn thích thú tìm mùi phân ngựa.
Tại thời điểm này quân luật không được trật tự bởi tân binh
quá đông, tất cả họ thường náo động do tinh thần bất ổn, họ đứng ngồi không
yên. Trong tuần lễ đầu sau khi chuyển binh lính vào lãnh thổ Việt Nam, bộ chỉ
huy khởi đầu huyến luyện binh mã, lập một vành đai trong vùng hoang dã, ngay cả
những người tân binh cũng không nhận diện được đồng hương gốc Vũ Hán. Vì có hai
mật khẩu, bất kỳ trường hợp nào cũng chỉ hỏi và đáp: "Đến những nơi bạn
không biết" và "Chúng ta sẽ tới nơi tốt nhất".
Đường sắt khổ hẹp của Việt Nam và Trung Quốc từ Bằng Tường thành
phố Quảng Tây xuyên qua Ải Chi Lăng, và Lạng Sơn đến Hà Nội Việt
Nam. Ảnh: Phóng viên Southern Weekend Zhang Tao.
Về đêm, chúng tôi rất sợ cái đèn lồng mờ trên trần trại nó
biết trêu ngươi, làm tâm trí lính Trung Quốc yếu lòng chiến đấu, nó lắc lư theo
chiều gió, đưa qua khuôn mặt tạo ra ảo ảnh mơ hồ, chập chờn nhập vào ý niệm ma
quái đang về thực tại. Bọn họ thường xuyên mất ngủ, thường thì thầm với nhau,
trò chuyện như một bản giao hưởng, âm thanh đi đôi với tiếng côn trùng hoang
dã, lâu lâu phảng phất mùi phân bò làng Việt từ xa đưa đến.
Hứa Minh (华明) cùng với chiến hữu Phong Kinh
Nam nguyên sinh viên Bách Khoa Vũ Hán, kể rằng:
‒ Trước khi đi chiến đấu tại Việt Nam, chúng nó nói:
"Bảo vệ con đường cách mạng vô sản của Mao Chủ Tịch cho đến hơi thở cuối
cùng" (Thệ tử hãn vệ Mao chủ tịch đích vô sản giai cấp cách mệnh lộ tuyến),
"Thề chết bảo vệ tư tưởng Mao Trạch Đông", tất cả mọi người đồng nêu
cao tinh thần cách mạng, dù tôi đã học năm thứ tư cũng phải lên đường vào đầu
mùa Thu năm ấy. Sau này tôi mới biết đảng Cộng Sản là con quái vật "Ngưu
quỷ Xà thần". Những chánh trị viên thường phun lời chỉ trích và chụp mũ
"phản động" những ai tỏ ra chống đối. Trong trường học, nơi nhà
xí hay tại chuồng phân đều nêu cao cách mạng, các lãnh đạo già miệng thi nhau dối
trá cho rằng "tình hình cách mạng trong chiều sâu" (Cách mạng hình thế
đích thâm nhập), "Trung thành hàng ngũ cách mạng" (Trung Quốc đáo
cách mệnh đích hành liệt). Tôi không thể chấp nhận được những từ ngữ cách mạng ấy.
Một khi người Cộng Sản rao giảng, ta thường thấy dã tâm của họ muốn quản lý con
người kể cả đời sống bình thường. Đương nhiên, cán bộ, quan chức của đảng cộng
sản đều che khuất đáy tham nhũng, họ sống khác biệt với nhân dân, do đó, có một
số nông dân, lao động, và sinh viên đã đi về phía nam Bắc Kinh nổi loạn.
Ngày nay, Trung Quốc có hai phe, một bảo vệ lãnh đạo đảng
chính quyền, và đã có dấu hiệu hứa hẹn ngày tàn Cộng Sản. Thứ hai, thành phần
lao động, sinh viên phản kháng... Tôi có một người bạn học cùng lớp hiện nay
thuộc phe phái giáo viên phản kháng chế độ, họ đã trở thành tổ chức và kết thân
thành tình "đồng chí".
Xã hội mỗi ngày đều có pha trộn lẫn nhau, sự việc nào không
tốt sẽ bị sa thải, nếu chế độ gay gắt tự nó biến thành thù hận, ăn miếng trả miếng,
họ đang suy nghĩ, âu lo mỗi ngày, hoặc thậm chí một khi họ sợ bản thân bị đe dọa
họ cũng có thể sử dụng vũ lực.
Đến cuối năm 1967, Mao Trạch Đông chỉ thị các tỉnh, thành
phố và các cơ quan dẫn đầu đánh phá những cơ sở "tư tưởng dân chủ", họ
chụp cái mũ gọi là "tư bản chủ nghĩa ", nói chung cho đến nay các cấp
lãnh đạo Cộng Sản "ủy ban cách mạng " chưa tìm được lý cớ của thành
phần đối kháng, dù đã thành hình nhiều năm qua với cái tên "tình hình cách
mạng" tạm thời được ổn định trong thời điểm này, họ sẽ "tiếp tục chiến
đấu" và đã tìm thấy mục tiêu, đảng Cộng Sản lên án "tư bản chủ
nghĩa", cộng sản càng quan tâm "sơ yếu lý lịch cách mạng" bởi họ
không yên tĩnh trái tim, do đó chúng ta xem "sơ yếu lý lịch cách mạng"
đã lỗi thời. Cũng ở thời điểm này đảng Cộng Sản đẩy "thiếu niên cách mạng"
vào "chiến đấu cách mạng" để thu hoạch một số tình cảm mới! Đảng cộng
sản đã bí lối, suy nghĩ nông cạn cho rằng Mao Trạch Đông là tư tưởng thần thánh
của Trung Quốc. Mỗi ngày đảng Cộng Sản còn bám trụ quốc gia, xã hội vẫn hỗn loạn
và ngột ngạt. Thậm chí những sinh viên trước đây hăng hái thi đua đấu tố cha mẹ,
khi kết thúc Cách mạng Văn hóa, họ mường tượng những nhà máy, chính quyền thuộc
về họ, thì ra họ quá ảo tưởng cho nên hôm nay thất vọng, rất nhiều thanh niên
gieo mình xuống vực thẳm quyên sinh, cuối cùng chính họ cũng không được làm
thành viên giai cấp công nhân, cái vinh quang ấy đã bị Mao Trạch Đông lừa gạt
và lợi dụng. Nhưng tôi không nghĩ như họ, ở đại học, trung học, học sinh phải
là chất xám của tương lai, cần phải phát triển giáo dục, còn vị trí của công
nhân lúc nào cũng thừa, về nhiệm vụ sản xuất nếu nhà máy bỏ hoang không có điều
gì nghiêm trọng.
Hơn nữa, tại thời điểm của tôi bị động viên vào Quân đội Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc là điều không cần thiết, bởi lúc đó họ huy động toàn
lực lượng trẻ học đường, chúng tôi mặc quân phục, đội mũ không biết làm cách
nào cho tiện, người ta gọi quân "con tin". Mục đích của Mao đốt hết
tuổi thanh xuân, "ăn chửa no lo chửa đến".
Kế hoạch Trung Quốc tiến vào Việt Nam bằng lộ trình thứ nhất Ải
Chi Lăng, và Lạng Sơn.
Nguồn: Hoa Nam
Kết quả nghĩa vụ quân sự, trong lớp chúng tôi tổng cộng có
60 người nhập ngũ, điều này hoàn toàn trái với mong đợi của tôi. Thực chất
nghĩa vụ quân sự một rào cản tương lai. Khi tôi nhìn lại, có lẽ đảng Cộng Sản
Trung Quốc bị bệnh tâm thần, hoạt động theo chỉ bảo của tên bạo chúa, dù sao,
vào thời gian đó và ngay cả bây giờ, tôi rất trân trọng những ai có tư tưởng
"Dân Chủ Đa Nguyên" nó sẽ là động lực phía trước, thay đổi quốc gia đến
gần với thế giới tự do.
Nhiều lúc, suy nghĩ của tôi quay trở về thực tế, bắt đầu viết
vào trang nhật ký trước khi đi ngủ, nói về một ngày thông qua gánh nặng trên
vai, giòng mực xanh thay cho giòng nước mắt, những trang giấy biết rung động
cho hương thơm dễ chịu, và thậm chí cảm thấy mùi của mực trộn lẫn trong số những
bạn gái, đặc biệt nhớ mùi lúa gieo hương thơm, hoa trắng ngào ngạt, tôi chia
tay với cha mẹ, hẹn ngày về bình an, thế nhưng bây giờ tôi là một phế binh trần
trụi.
Trong những ngày hành trình đi đến Việt Nam, tàu hoả đưa
chúng tôi vào miền đất xa lạ. Buổi trưa hôm ấy, tàu hỏa dừng lại tại một trạm
không tên, cách sân ga 500 mét, chúng tôi không thể biết nó là ga nào, chứng tỏ
có bí ẩn bên trong quân sự. Các cán bộ quân đội nói với chúng tôi:
‒ Đã đến trạm Hành Dương, dừng lại một thời gian ngắn, quý
đồng chí cần phải đi đầu tiên sự kiện (tiểu tiện), hãy nhớ đi đừng xa để nghe
tiếng còi báo hiệu bữa ăn chiều". Sau đó tàu hỏa đưa chúng tôi vào nhà ga,
tạm nghỉ quân để ăn cơm. Ấn tượng đầu tiên đó là một nhà máy, hay trường học bỏ
hoang, khi vào phòng căng tin có diện tích lớn, thế nhưng trống rỗng, phải nói
toàn bộ phòng ăn trống rỗng, ngoại trừ hai hàng trụ cột bê tông, không có bàn
ghế, không có cửa sổ, khi chúng tôi chuẩn bị ăn, các nhân viên sắp xếp một bữa
ăn tồi tệ, cứ ba hoặc bốn mét vuông là một nhóm, trên sàn nhà chỉ có một thùng
lớn chứa cơm hấp, hơi có múi hôi, mọi người đều bất chấp tranh nhau ăn dù cơm
đang nóng, bởi một ngày đói khát rã rượi. Sau nhiều năm trong quân đội, chúng
tôi vẫn luôn luôn ở vị trí ngồi xổm trên mặt đất để ăn cơm, đã thành thói quen,
đến nay ngồi trên bàn ăn cơm thực sự không dễ dàng.
Sau khi ăn tối trở lại nhà ga, tiếp tục nốt hành trình, tôi
nhìn thấy một con đường phía Nam tàu hỏa, có một đội quân xa, đoàn xe của những
người lính mặc đồng phục màu xanh lá cây thay vì cỏ, và những đồng phục màu xám
ánh sáng đồng bằng, không đeo phù hiệu trên ve nắp áo. Ở đây đồng phục rõ ràng
in "Quân đội nhân dân Việt Nam", quả nhiên chúng tôi không còn ở trên
đất Trung Quốc nữa, dĩ nhiên là đường sắt Việt Nam nhưng công binh lại là
"Quân đoàn đường sắt Trung Quốc!"
Xem ra, cách cư xử của đảng Cộng sản Trung Quốc quá khác
thường, họ nói cho chúng tôi biết: Đây là một nhóm các cựu chiến binh chuẩn bị
xuất ngũ, và một số người bên trái mặc áo "Viện trợ cho Việt Nam".
Theo suy nghĩ của chúng tôi, họ đã trở lại từ chiến trường Việt Nam.
Chúng tôi đứng không xa họ, nhìn vào lòng xe, cuối cùng tìm
hiểu đặt câu hỏi:
‒ Này, quý bạn đang quay trở về quê hương à?
Họ không trả lời, tuy nhiên hỏi lại:
‒ Bạn đến Việt Nam à?
‒ Đó là Việt Nam ư?
‒ Tất nhiên rồi!
‒ Có thể bạn trả lời sai không?
Mặc dù thời tiết không nóng, chỉ cần vài câu đối đáp, không
khí tự nó nâng lên sức nóng, mồ hôi tuôn trào ước cả áo khoác để lộ ký tự in
"Việt Nam" trên ve áo màu cỏ xanh.
Một đồng đội khác hỏi:
‒ Bạn là những lực lượng nào?
‒ Quân đoàn…
Một cán bộ xía vào:
‒ À, thông minh, bạn là tân binh trong quân đoàn của chúng
tôi"
‒ Thật không?
‒ Không thể phiếm luận!
‒ Điều đó cho rằng chúng tôi đang đến Việt Nam?
‒ Thế à !
Trùng hợp ngẫu nhiên chúng tôi có một chút hoài nghi, y nói
tiếp :
‒ Này, điều đó còn tin hay không tùy ý.
Ngay sau đó, một số cán bộ quân đội đến từ phía tàu hỏa đối
diện, với một cái nhìn trang nghiêm, chính là chiến binh khi nãy, vừa đi qua đứng
trước mặt điểm danh chúng tôi:
‒ Chào.
‒ Chào Huấn luyện viên!
‒ Chào cấp chỉ huy, em có mặt!
Cán bộ mỉm cười và gật đầu, nhưng lập tức, ngay lại đổi vẻ
mặt cau có, nói nghiêm khắc:
‒ Quý đồng chí cũ, và mới không thể tự do tiết lộ bí mật quân sự ở nơi công cộng
này, và những nơi khác!
Có một cựu chiến binh, nói quá nhiều, vừa dớ dẩn lại vừa
dai dẳng, chỉ quanh quẩn qui luật chiến trường và nghĩa vụ quân nhân. Lúc này
chúng tôi càng hoài nghi nhiều hơn bởi hai tiếng rõ ràng "Việt Nam".
Chúng tôi lặng lẽ theo thân phận con tàu hòa, đã bắt đầu khởi hành lao về phía
trước nghiệt ngã. [4]
ÿ Huỳnh Tâm
Tham khảo:
[1] "越南共产党以价$22十亿 - Đảng Cộng Sản Việt Nam tính theo trị giá 22 tỷ USD".
[2] Mã số hồ sơ lưu trữ: BK1965-12ZIM-PLA (Bộ Quốc
Phòng Trung Quốc).
[3] Trích từ nguồn: "编年史,中华人民共和国参战越南 - Niên sử, Cộng hòa nhân dân Trung Quốc tham chiến tại
Việt Nam".
[4]- Trích từ "的中国史馆纪事援助越南人民共和国 -
Historica China Cộng hòa Nhân dân Giải phóng Trung Quốc viện trợ cho Việt
Nam".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét