Ngày 12 tháng mười một năm 1938,
"Đài Loan nhật nhật tân báo" đưa tin, Hồ Tập Chương bị bắt giam tại
nhà lao Nam Thạch Đầu, Hà Nam. Rốt cuộc "Hà Nam" là địa phương nào?
Nam Thạch Đầu ngục ở đâu? Căn cứ vào "Lịch sử tổ chức Đảng cộng sản thành
phố Quảng Châu" "Hà Nam" ở phía nam sông Châu, còn nhà giam Nam
Thạch Đầu ở phố Nam Thạch Đầu, khu Hải Châu, thành phố Quảng Châu gọi là
"Trại trừng giới". Sự kiện ngày 15 tháng tư năm 1927,
Quốc dân đảng mở
cuộc càn quét bắt giữ hàng loạt đảng viên cộng sản giam giữ tại đây. Liên quan
đến sự kiện "Đài Loan nhật nhật tân báo" đưa tin Hồ Tập Chương bị giam
tại nhà lao Nam Thạch Đầu, phải chăng có dính dáng đến việc đồng nhất thân phận
Hồ Tập Chương với Hồ Chí Minh, khi Hồ Chí Minh vào tháng mười một đến tháng mười
hai năm 1938 đột nhiên mất tích ở cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây? Hồ Chí Minh bị giam ở Quảng Châu nhưng
lại mất tích ở Quế Lâm nửa tháng đều thuộc tiểu sử Hồ Chí Minh chưa bao giờ được báo chí đưa tin, lại
càng chứng thực Hồ Tập Chương chính là Hồ Chí Minh. Mối quan hệ nhân qủa đặc biệt
quan trọng này sẽ được trình bày cụ thể ở mục "Cơ quan Bát lộ quân Quế
Lâm" và "Đài Loan nhật nhật tân báo" trong Thiên IV.
"Hồi ký Trịnh Siêu Lân": Hồ
Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu
Trang mạng "Bách gia tranh
minh", chuyên mục "Lĩnh Nam di dân" có bài "Dưới Nam Sơn dằng
dặc" đã đăng tải một thiên dẫn từ "Hồi ký Trịnh Siêu Lân" liên
quan đến sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt ở Long Châu. Cũng ở chuyên much này, ngày
16 tháng chín năm 2007, đã đăng một bài viết về Hồ Chí Minh bị bắt, nội dung
như sau: "Tôi đã nhiều lần đọc trên mạng thấy các bài viết của nữ sĩ Đới
Tình dẫn ra hai thiên "Truyện Phó Đại Khánh" của Trịnh Siêu Lân.
Trong đó, Trịnh tiên sinh đã đề cập đến Phó Đại Khánh (thân phụ của nữ sĩ Đới
Tình), vào năm 1931, đã gặp Hồ Chí Minh ở phòng tạm giam Quảng Châu. Tại đây, Hồ
Chí Minh đã nhờ Phó Đại Khánh chuyển tin đến Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị
giải cứu. Từ những điều tác giả viết, Hồ Chí Minh tại đất Trung Quốc đã hai lần
bị bắt, lần đầu bị cảnh sát Hương Cảng bắt vào năm 1931, lần sau bị Quốc dân đảng
bắt vào tháng tám năm 1942 ở huyện Đức Bảo, Quảng
Tây. Sau khi đọc hai bài viết trên, tôi tiến hành điều tra các nguồn tư liệu tiếng
Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Việt, nhưng không thấy bất cứ tài liệu
nào nói đến việc Hồ Chí Minh bị bắt
giam ở Quảng Châu vào năm 1931. Sau này, tôi cũng đã hỏi một người rất thông thạo
lịch sử Việt Nam là giáo sư Nguyễn Thế Anh, ông trả lời là chưa bao giờ được
nghe chuyện ấy. Lẽ nào các sử gia lại để sót sự kiện này? Tôi bèn đọc lại
"Hồi ký Trịnh Siêu Lân" và tạm thời đề xuất mấy khả năng có thể xẩy
ra như sau:
1 - Căn cứ vào văn bản của Trịnh Siêu Lân, Phó Đại Khánh bị
bắt tại Calcutta, Ấn Độ, giải về Nam Kinh thẩm vấn, giữa đường gặp Hồ Chí Minh ở
Quảng Châu, tức là hành trình Calctta - Quảng Châu - Nam Kinh. Vậy vì sao Phó lại
không đi đường Calcutta - Thượng Hải - Nam Kinh, há chẳng tiện hơn sao? Có lẽ
tuyến Thượng Hải - Quảng Châu và Calcutta, thuyền bè qua lại không nhiều, hoặc
không có. Về mặt tư liệu và chứng cứ, chúng ta có thể phán đoán, giữa Hương Cảng
và Calcutta các phương tiện giao thông rất thuận lợi, hai nơi này lại đều là
thuộc địa Anh Quốc, nên có khả năng Phó và Hồ gặp nhau tại Hương Cảng. Trịnh
lão tiên sinh, khi viết truyện này đã chín mươi tuổi, những vấn đề thuộc về ký ức
rất có thể nhầm lẫn đem Hương Cảng đổi thành Quảng Châu. Rất tiếc tác giả đã
qua đời nên không thể xác minh tường tận. Chỉ có một điểm, thời gian hai người
gặp Hồ Chí Minh bị bắt tại Hương Cảng cũng tương đối gần nhau. Trịnh tiên sinh
nói sự việc xẩy ra vào giữa mùa xuân và mùa hè, mà thời gian chính xác Hồ bị cảnh
sát Hương Cảng bắt vào ngày 6 tháng sáu năm 1931.
2 - Hương Cảng và Quảng Châu cách nhau hơn trăm dặm,
sau khi Hồ Chí Minh bị bắt ở Hương Cảng, cũng có thể bị giải đến Quảng Châu, vậy
vì sao không có bất cứ tờ báo nào của thực dân Anh đưa tin này? Nếu phán đoàn
và suy luận việc này là không có khả năng, như vậy, sự kiện Hồ Chí Minh từng đến
Quảng Châu rồi bị bắt (hoạc bị tạm giam) sẽ là một chi tiết nhỏ trong tiểu sử Hồ
Chí Minh mới được phát hiện.
Ở phần trên, chúng ta đã biết đến sự
kiện "Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu" của "Lĩnh Nam di
dân". "Lĩnh Nam di dân" là chuyên mục của nhóm người Việt gốc
Hoa, đã có những nghiên cứu về lịch sử Việt Nam hiện đại. Ở trang web này, đã
có nhiều bài nghiên cứu về Hồ Chí Minh rất đáng đọc. "Lĩnh Nam di
dân" đề cập đến sự kiện "Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu" có
tham vấn ý kiến giáo sư Nguyễn Thế Anh, là chuyên gia nghiên cứu lịch sử cận đại
Việt Nam. Đối với Hồ Chí Minh, ông cũng có những phát hiện độc đáo, nhưng lại
không hề biết về sự kiện "Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu". Có thể thấy,
vào những năm 1929 đến 1932, việc Hồ Tập Chương hoạt động ở Trung Quốc, được
Trung cộng bảo mật khá tốt. Trong "Truyện Phó Đại Khánh", Trịnh Siêu
Lân tiên sinh viết có đoạn Phó Đại Khánh tham gia giải cứu Hồ Chí Minh. Độc giả
có thể đọc trang mạng "Lĩnh Nam di dân" hoặc tham khảo "Lịch sử
và hồi ức" của Trịnh Siêu Lân (Sử sự dữ hồi ức - Trịnh Siêu Lân vãn niên
văn tuyển đệ nhị quyển). Ngoài ra cũng có thể xem thêm "Quốc tế cộng sản
và Trung Quốc", quyển 3, ghi
chép các sự kiện trước sau năm 1930: "Phó Đai Khánh và Hồ Tập Chương nhiệt
tình giúp đỡ nhau cùng tham gia hội nghị Malaysia ở Singapore".
Bí mật "Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng
Châu"
Liên quan đến bí mật "Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng
Châu", gia đình ở Miêu Lật Đài Loan, cả hai lần đều được biết tin. Lần thứ
nhất ước vào khoảng trước sau năm 1932, Hồ Tập Chương gửi tiền nhờ người bạn
chuyển giúp. Người bạn này từ Đại Lục qua Nhật Bản rồi mới trở về Đài Loan,
thông báo với người nhà: " Hồ Tập Chương là công chức trong 'Liên minh mậu
dịch Thái Bình Dương' tại Thượng Hải, vì làm công việc in ấn tài liệu, bị kiểm
tra, niêm phong nhà, có thể bị bắt, nên phải bí mật đến Quảng Châu tránh nạn,
sau đó chuyển dến Quảng Tây, Xiêm La dạy tiếng Nhật và khai khoáng làm kế sinh
nhai". Từ sau năm 1933, vì đã nhiều năm không có tin tức gì, gia dình cho
rằng Hồ Tập Chương đã mất ở quê người.
Lần thứ hai, vào khoảng tháng mười một đến tháng mười hai
năm 1938, tờ "Nhật nhật tân báo" bằng tiếng Nhật ở Đài Loan đưa tin
"Hồ Tập Chương, người Đài Loan, được Nhật Bản huấn luyện đặc vụ đưa đến Quảng
Châu công tác, vì thân phận bại lộ, bị bắt giam tại nhà ngục Quảng Châu. Thời kỳ
quân đội Nhật tiến đánh Quảng Châu, ông ta chạy thoát khỏi nhà giam, được giao
nhiệm vụ thông dịch viên cho "Quân lệnh bộ Quảng Đông". Năm ấy , Hồ Tập
Chương có một người em út là Hồ Tập Dưỡng bị quân Nhật trưng binh đưa đến Hạm đội
Hương Cảng làm phiên dịch, đọc "Nhật nhật tân báo" mới biết tin về Hồ
Tập Chương, liền đến Quảng Châu thăm anh. Sau đó Hồ Tập Dưỡng về Đài Loan thông
báo với gia đình tình hình gần đây của Hồ Tập Chương, đồng thời đặc biệt chuyển
lười của anh với gia tộc: "Sắp tới anh ấy sẽ đi Vân Nam chuyển đến Việt
Nam để phát triển tổ chức, nếu không thành công sẽ không về nhà. Gia dình không
cần phải đi tìm".
Từ đấy về sau, Hồ Tập Chương không có bất cứ sự liên lạc
nào với gia đình.
Tiểu sử giản lược Hồ Tập Chương
1 - Sinh năm 1901 (Minh Trị thứ 34), tức
ngày 11 tháng mười năm Tân Sửu tại trang Đồng La, quận Miêu Lật, tỉnh Đài Loan
vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan. Cha là Hồ Dần Lượng, mẹ là Lý Thị, đứng
thứ 7 trong số 10 anh chị em. Cụ Hồ Dần Lượng vốn là tú tài (sinh đồ), mở nhà dạy học
kiêm nghề bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Dân địa phương phục tài xưng là
"Thánh nhân".
2 - Từ năm 1906 đến 1910, học với cha.
Ngay từ buổi thiếu thời, Hồ Tập Chương đã được tiếp thụ nền giáo dục Hán học
nghiên ngặt, thông thạo thi từ, viết chữ phỏng, tuy không tinh diệu, nhưng đến
việc đọc, viết đều không thành vấn đề. Sau đó ông còn luyện tập viết chữ cho đến
khi có khả năng thư pháp.
3 - Từ năm 1910 đến 1915, vào học trường
phổ thông Đông La, tiếp thụ nền giáo dục mới của Nhật với 3 năm Hán văn và Nhật
văn.
4 - Từ năm 1916 đến năm 1921, học Khoa
Hóa học ứng dụng trường Đại học Công nghiệp Đài Bắc số 1 cùng với các sinh viên
Nhật Bản. Căn cứ vào lời người chú của tác giả, thì, lúc bấy giờ cả quận Miêu Lật
chỉ có một người là Hồ Tập Chương được tuyển chọn. Năm 1921 đỗ tốt nghiệp cấp
ưu tú. Sau năm 1921, Đại học Công nghiệp Đài Bắc số 1 và số 2 hợp nhất, đổi tên
là Đại học Công nghiệp Châu lập Đài Bắc. Đến năm 1943, số sinh viên là 1545,
trong đó, Nhật Bản 1105, như vậy Đài Loan chỉ có 429. Người Đài Loan lấy lý do
chỉ có một nửa sinh viên so với Nhật nên đã phản đối sự thống trị của đế quốc
Nhật, chủ trương giành độc lập cho Đài Loan.
5 - Từ năm 1922 đến 1928, Hồ Tập
Chương trở về Miêu Lật cùng với huynh trưởng mở xưởng nấu rượu và khai trương
hiệu thuốc. Cùng với rượu và thuốc, Hồ Tập Chương còn kết hợp với một người bạn
sản xuất xì dầu. Ông thường xuyên giao du, tụ tập bạn bè trao đổi tin tức chống
Nhật, học thêm tiếng Anh và đọc các sách báo cộng sản, có dủ điều kiện hoạt động
chống Nhật nhưng chưa tham gia các tổ chức cộng sản.
6 - Năm 1926, kết hôn với người con
gái cùng thôn là Lâm Quế.
7 - năm 1928, Sinh con gái đầu lòng là
Hồ Tố Mai.
8 - Mùa thu năm 1929, Hồ Tập Chương có
người anh thứ ba là Hồ Tập Phỉ cùng với em rể Lưu Anh Hán và một người bạn ở
Trung Lịch, đến bến Cơ Long, xuống tàu Nhật đi Thượng Hải. Sau chuyến đi, người
bạn trở lại Đài Loan thông báo, gia đình mới biết Hồ Tập Chương đi Thượng Hải
tham gia "Tổ chức lao động Thái Bình Dương" của Quốc tế cộng sản. Trước khi rời Đài Loan, Hồ Tập Chương đã đốt hết
sách báo tài liệu liên quan đến cộng sản khiến người nhà không hiểu lý do, sau
này mới rõ, ông làn thế là để tránh liên lụy đến gia đình.
9 - Mùa xuân năm 1930, con trai trưởng Hồ Thự Quang ra đời
nhưng không biết mặt cha.Tôi có hỏi về mối quan hệ giưa Hồ Chí Minh với gia
đình qua những thông tin trên báo chí, Hồ Thự Quang vào năm 2005 đã 75 tuổi, bị
trúng gió nhẹ, cặp mắt hơi lệch, nói câu được câu mất: "Lúc còn nhỏ, bác
Ba (Hồ Tập Phỉ) từng nói với tôi: 'Cha cháu làm nghề buôn bán ở Thượng Hải'.
Khi tôi mười lăm, mười sáu, chú Út (Hồ Tập Dưỡng) lại bảo: ' Cha cháu có khả
năng là Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Việt Nam". Chú Thự Quang thở dài nặng nhọc,
nói đứt quãng: "Mấy chục năm nay đã nghe nhiều tin đồn, chẳng biết có dụng
ý gì. Chú muốn hỏi thân mẫu nhưng bà đã qua đời. Từ lúc phụ tử phân ly, mỗi người
một phương, chưa từng gặp mặt, cũng chẳng để lại một dòng lưu bút nào. Được tôn
xưng là 'Cha già Việt Nam', nhưng chú chắc rằng, trong lòng ông lúc nào cũng
thương cảm mà thôi". Nói rồi, ông đứng dậy, nghẹn ngào. Tôi vội vàng đỡ lấy,
an ủi: "Thời tao loạn, tạo hóa trêu ngươi. Từ lúc chính phủ Quốc dân đảng
tiến nhập Đài Loan, ông không thể về, chứ không phải không muốn về. Tiểu thúc
công chẳng đã từng nói, trên hành trình bôn ba, Người lấy tên Hồ Quang làm bí
danh, đó chẳng phải là tình cảm của Người với gia đình sao?"
10 - Trước sau năm1932, những người bạn thay nhau truyền
tin về gia đình là, Hồ Tập Chương làm việc tại "Liên minh mậu dịch Thái
Bình Dương" Thượng Hải, khoảng thời gian giữa mùa hạ và mùa thu năm 1931,
vì việc in ấn tài liệu mà bị bắt tạm giam nhưng đã trốn đến được đến Quảng
Châu, sau đó lại bị bắt ở Quảng Châu, đến khi được giải cứu thì chuyển về vùng
biên giới Việt Trung, Xiêm La hoạt động.
11 - Năm 1932-1933, có tin Hồ Tập Chương đến vùng núi Quảng Tây khai thác quặng, giám dịnh
ngọc quý rồi sau đó sang Xiêm La hoạt động, có nhờ một người bạn gửi tiền về
cho gia đình. Từ năm 1933, sau nhiều năm không nhận được tin tức, người nhà cho
rằng Hồ Tập Chương đã qua đời.
12 - Từ tháng mười một đến tháng mười hai năm 1938, tờ báo
Đài Loan bằng tiếng Nhật "Nhật nhật tân báo" đưa tin: "Hồ Tập
Chương trốn khỏi nhà giam, bí mật đến quân doanh Nhật ở Quảng Đông làm nhiệm vụ
thông dịch cho quan chỉ huy "Quảng Đông quân lệnh bộ". Như chúng ta
đã biết, Hồ Tập Chương vốn tinh thông nhiều ngoại ngữ như là một vốn quý nên bị
các thế lực tranh thủ lôi kéo không có gì lạ. Đến đây người nhà mới biết tin về
ông.
13 - Đầu năm 1939, người em út của Hồ Tập Chương là Hồ Tập
Dưỡng, bị quân Nhật trưng binh đưa đến Hạm đội Hương Cảng làm phiên dịch đã tìm
đến Quảng Châu gặp Hồ Tập Chương. Khi về Đài Loan, ông đã báo tin cho gia đình,
đồng thời chuyển lời dặn của Hồ Tập Chương là: "Anh ấy sắp sửa sang Việt
Nam hoạt động, nếu không thành công sẽ không về nhà, gia đình đừng tìm kiếm".
14 - Đầu năm 1939, Hồ Tập Chương rời quân đội Nhật, gia nhập
cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm Quảng Tây thì không gặp lại Hồ Tập Dưỡng nữa, đồng
thời cũng không có bất cứ sự liên lạc nào với gia đình.
15 - Năm 1946, Ngô Trọc Lưu ở
"Đài Bắc Quốc hoa thư tịch", xuất bản 4 cuốn tiểu thuyết bằng tiếng
Nhật, trong đó có cuốn "Hồ Chí Minh" nổi tiếng, có xen kẽ một số sự
kiện Hồ Tập Chương hoạt động ở Thượng Hải, bị bắt giam, chính là đã truyền đạt
ngầm một thông tin tối quan trọng về bí mật Hồ Chí Minh ở Việt Nam chính là Hồ
Tập Chương đến từ Đài Loan. Sau này, tiểu thuyết "Hồ Chí Minh" chuyển
ngữ sang Trung Văn được đổi tên thành "Đứa con côi châu Á", bởi lẽ,
sau khi quân đội Quốc dân đảng tiến ra Đài Loan, Hồ Tập Chương không thể trở về
quê hương, cuối cùng trở thành "Đứa con côi châu Á".
Tiểu sử Nguyễn Ái Quốc
1- Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng
năm năm 1890 tại thôn Kim Liên, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Việt
Nam. Tên hồi nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, đến năm 11 tuổi đổi thành Nguyễn Tất
Thành. Năm 17 tuổi, lúc ấy ông đang ở Paris đổi thành Nguyễn Ái Quốc. Cha là
Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan, là con thứ 3 trong số 4 anh chị em. Cụ
Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng được bổ tri huyện, sau khi bị cách chức chuyển sang
làm thầy lang, lưu lạc đến phương Nam, bị bệnh chết năm 1928.
2 - từ năm 1900 đến 1904, theo học chữ
Hán nhưng không liên tục, thời gian rất ngắn.
3 - Năm 1905 đến 1908, vào học dự bị trường Quốc học Huế, học
Pháp văn, Việt văn, thời gian không quá 4 năm.
4 - Năm 1910 làm giáo viên trường tiểu họ Dục Thanh, giảng
dạy môn thể dục, thời gian khoảng 1 học kỳ.
5 - Năm 1911, khi mới đến Sài Gòn, tạm thời học nghề làm bếp,
sau đó lên tàu Amiral Latouche Trevil xin làm phụ bép. Ngày 6 tháng năm, Nguyễn
Tất Thành theo tàu đến Singapore rồi tiếp tục hành trình sang Pháp, bắt đầu cuộc
đời phiêu bạt hoạt động cách mạng.
6 - Năm 1913, tàu đến Marseille, sau khi bốc hàng, lại tiếp
tục đến Tây Phi rồi đi Bắc Mỹ.
7 - Thời gian từ 1914 đến 1917, tạm trú ở London, ban ngày
làm nghề quét tuyết, buổi tối phụ bếp cho một quán ăn, học tiếng Anh, tham gia
tổ chức Công nhân ngoại kiều phản đối chủ nghĩa thực dân. Sau này, do tàu thủy
cần người làm việc, lại tiếp tục hành trình sang NewYork.
8 - Cuối năm 1917, quay lại Paris, lấy tên Nguyễn Ái Quốc,
kết giao thân thiết với các nhà cách mạng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường v.v..
9 - Năm 1919, làm quen với các chính
khách Tả khuynh Pháp Marcel Cachin, Paul
Vaillant Couturier, Léon Blum và gia nhập đảng Xã hội Pháp cùng với nhóm Phan
Văn Trường, xuất bản tờ tuần san "Việt Nam hồn". Từ đó tên tuổi Nguyễn
Ái Quốc nổi tiếng ở Pháp, ảnh hưởng trở lại Việt Nam.
10 - Gửi bản kiến nghị 8 điểm đến Hội
nghị hòa bình Versailles, ký tên Nguyễn Ái Quốc, đã có ảnh hưởng lớn đến cả hai
nước Pháp, Việt.
11 -Năm 1920, tham gia Đại hội Tour của đảng Xã hội Pháp,
lên án tội ác của chủ nghĩa tư bản Pháp đối với nhân dân Việt Nam. Cũng ở Đại hội
này, Nguyễn Ái Quốc gia nhập đảng Cộng sản, trở thành đảng viên sáng lập của đảng
Cộng sản Pháp.
12 - Năm 1921, Đại
hội đại biểu toàn quốc đảng Cộng sản Pháp cử hành tại Marseille, tích cực hoạt
động tuyên truyền phản đối chủ nghĩa thực dân Pháp, trở thành chuyên gia về vấn
đề "Chủ nghĩa thực dân" của Đảng Cộng sản Pháp.
13 - Cùng một số người yêu nước của các thuộc địaPháp ở Bắc Phi và Madagasikara đang sống tại Paris thành lập "Hội Liên hiệp thuộc địa"
((L'Union Intercoloniale) và xuất bản tờ báo "Người cùng khổ" (Le
Paria), phát hành được 38 kỳ.
14 -Tháng sáu năm 1923 rời Paris,
tháng bảy đến Mạc Tư Khoa, được phân công làm việc tại Cục Viễn Đông của Quốc tế
cộng sản. Tháng mười, tham gia Đại hội thành lập "Hội nông dân quốc tế",
sau đại hội được bầu vào Đoàn chủ tịch của tổ chức này. Tháng mười hai, vào học trường Đại học Lao động
phương Đông, tiếp thụ khóa trình huấn luyện 7 tháng về chủ nghĩa Marx-Lenin.
15 - Tháng sáu năm 1924, tham gia Hội
nghị Quốc tế cộng sản lần thứ V, tìm mọi cách tranh thủ mọi cơ hội lên án đế quốc
Pháp xâm lược và chủ nghĩa thực dân. Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu ra tranh cử
dân biểu khu vực Paris, mở ra cho Nguyễn Ái Quốc chỗ đứng trong vai trò vận động
các nhà lãnh đạo quốc gia đối với phong trào Cộng sản.
16 - Tháng mười năm 1924, rời Mạc Tư Khoa đến Vladivostok,
từ đây, xuống tàu về Quảng Châu
ngày 11 tháng mười một.
17 - Năm 1925, tại Quảng Châu, tham gia thành lập tổ chức
bí mật "Tâm tâm xã", sau đổi thành "Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí hội", kết nạp 10 thành viên, trở thành nhóm đảng viên dự bị đầu
tiên cho việc thành lập Đảng sau này, là tiếng kèn hiệu đưa Việt Nam vào quỹ đạo
phong trào Cộng sản thế giới. Từ tháng sáu năm 1925 đến tháng năm năm 1930, tuần
san "Thanh niên" bằng tiếng Việt đã phát hành 208 kỳ, phần lớn các
bài xã luận là do Nguyễn Ái Quốc viết.
18 - Năm 1926 tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc Quốc dân đảng
lần thứ II taj+i Quảng Châu, gửi Đại hội một bức thư ngắn gọn bằng tiếng Trung
(tôi nhận thấy, đây là lần thứ nhất và cũng là duy nhất, Nguyễn Ái Quốc công
khai viết bằng tiếng Trung), trình bày Việt Nam bị thực dân Pháp áp bức thống
khổ. Trong Đại hội, Nguyễn Ái Quốc phát biểu bằng tiếng Pháp được Lý Phú Xuân
chuyển dịch sang tiếng Hoa. Được Trung cộng giúp đỡ, Nguyễn Ái Quốc tích cực vận
động người Việt Nam gia nhập "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội".
19 - Ngày 18 tháng mười năm 1926, tại nhà hàng Thái Bình
Dương, kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng là người giới
thiệu và làm chứng. Borodin và Trương Thái Lôi cũng đến dự hôn lễ.
20 - Năm 1927, vì có cuộc thanh trừng
cộng sản của Quốc dân đảng nên phải bí mật rời đến Vũ Hán. Tháng bảy, hợp tác
Quốc Cộng tan vỡ, rời Vũ Hán đến Mạc
Tư Khoa.
21 - Tháng mười một năm 1927, được lệnh
đến Paris trợ giúp đảng Cộng sản Pháp xây dựng kế hoạch phát triển có hiệu quả
cuộc vận động cách mạng Đông Nam Á. Đầu tháng mươi hai, được Quốc tế cộng sản cử
đến Bruxelles tham dự "Hội nghị Đồng minh phản đối đế quốc", sau đó
qua Thụy Sĩ, Italia và Pháp khảo sát thực tế.
22 - Cuối tháng sáu năm 1928, đi tàu thủy
của hãng vận tải Nhật Bản đến Bagkok Thailand vào tháng bảy, kiểm tra các tổ chức
cách mạng Việt kiều và thành lập "Xiêm La cách mạng đồng chí hội".
23 - Năm 1929, tìm kiếm phương pháp chữa bệnh đông y để điều
trị lao phổi. Sau này, ông có báo cáo với các đồng chí Việt Nam ở Hương Cảng là phải tạm thời dừng chân ở
Xiêm chữa bệnh một năm, không thể tiếp tục công tác được.
24 - Đầu năm 1930, rời Bangkok đến Quảng
Châu. Ngày 3 tháng hai, tại Hương Cảng, tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc Việt
Nam cách mạng đảng do Nguyễn Ái Quốc điều hành. Ba tổ chức cộng sản vốn mâu thuẫn
với nhau, hợp nhất thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng mười,
chủ trị hội nghị lần thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp hành chỉ
thị của Quốc tế cộng sản, lại đổi
thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
25 - Năm 1931, được cử làm đại biểu Quốc tế cộng sản tại Hương Cảng, phụ trách Cục Nam Dương. Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản bị khám
xét. Ngày 6 tháng sáu, chính quyềnHương Cảng gán cho tội danh là phần tử phá hoại.
Nhà đương cục Pháp tại Việt Nam trước đó cũng đã truy tố các tội danh chống
Pháp và phán quyết tử hình vắng mặt, yêu cầu chính quyền Hương Cảng dẫn độ về
Việt Nam thụ hình. Tại Hương Cảng, luật sư Loseby tìm mọi cách cứu Nguyễn Ái Quốc
và bố trí cho ông đi Singapore.
26 - Đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc bị
thêm tội danh nhập cảnh trái phép do cảnh sát Singapore không cấp thị thực, buộc
phải trở lại nhà giam Hương Cảng. Tại đây, luật sư Loseby cùng với tình báo
viên Anh Quốc Paul Draken đã bí mật
giải cứu đưa lên một chiếc thủy phi cơ bay đến bến sông Hoàng Phố, sau đó được
các đồng chí của ông đưa thuyền ra đón về Thượng
Hải. Mùa thu năm 1932, từ Thượng Hải điMạc Tư Khoa, bệnh lao phổi tái phát nguy
kịch, đã chết trên đường đi.
(Tác giả nhận xét: Có thể căn cứ vào
những tấm ảnh đã chụp từ 10 đến 20 năm về trước để phân biệt được Nguyễn Ái Quốc
và Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đối với
người phương Tây nhìn người phương Đông thì hoàn toàn không dễ. Khuôn mặt người
ta qua thời gian có sự biến đổi, nhưng cái tai và nhất là vành tai, trái lại
không dễ biến dạng. Tai và
vành tai Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh có không nhiều những nét khác nhau để chứng
minh sự bất đồng. Tấm ảnh Nguyễn Ái Quốc (trong hồ sơ), phía trên cùng bên phải,
William J. Duiker không ghi chú thời gian. Tác giả Trung Quốc Tào Tấn Kiệt
trong tác phẩm "Các lãnh đạo quốc gia nước ngoài trong chiến tranh chống
Nhật tại Trung Quốc", ghi chú ảnh chụp vào mùa xuân năm 1925 tại Quảng
Châu. Tấm ảnh này thường xuyên được lưu trong hồ sơ Hồ Tập Chương (ảnh 1) cùng
thay nhau xuất hiện là có sự liên kết về diện mạo giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí
Minh (Hồ Tập Chương). Như ảnh (1), (2), ảnh (1) là Nguyễn Ái Quốc, ảnh (2) là Hồ
Chí Minh (Hồ Tập Chương).Tôi nhận ra tấm ảnh Nguyễn Ái Quốc này, cơ bản là ảnh
giả, nhất là phía tai trái hiện ra rất rõ.Ý đồ là, dùng tấm ảnh Hồ Tập Chương
chụp năm 1934 tại Mạc Tư Khoa làm
ảnh Nguyễn Ái Quốc để hợp nhất hai người làm một. So sánh một loạt ảnh chụp của
Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, có
thể thấy, diện mạo của hai người có nhiều nét khác nhau.
Phụ lục1
Ảnh của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh trong hồ sơ
Ảnh chụp trong hồ sơ Nguyễn Ái Quốc
1/ Ảnh chụp năm 1923 tại Pháp trong "Truyện Hồ Chí Minh" của William J. Duiker.
2/ Ảnh chụp
năm 1923 tại Nga Xô trong
"Truyện Hồ Chí Minh" của William
J. Duiker.
3/ Ảnh
Hồ Chí Minh không rõ xuất xứ và thời gian. Đây là tấm ảnh nghi vấn trong
"Truyện Hồ Chí Minh" của William
J. Duiker.
4/ Tấm ảnh này của Nguyễn Ái Quốc được chụp
năm 1925 tại Nga Xô
5/ Ảnh Nguyễn Ái Quốc trong nhà triển
lãm ở Việt Nam
Ảnh truyền thần của của Nguyễn Sinh Huy, thân phụ
Nguyễn Ái Quốc.
6/ Tấm ảnh này chụp năm 1924 tại Liên Xô
trong "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919- 1941" của
Sophie Quinn - Judge.
Ảnh trong hồ sơ Hồ Tập Chương
6/ Ảnh Hồ Chí Minh năm 1934 tại Mạc Tư Khoa trong "Truyện Hồ Chí
Minh" của William J.
Duiker. 9/ Tấm ảnh này do Andred Roth chụp đăng trong "Tân Việt Nam"
năm 1946 tại Việt Bắc.
Phụ lục 2
"Hồi ức Trịnh Siêu Lân - Truyện
Phó Đại Khánh"
Sau khi các lưu học sinh theo phái
Troskism (Thác phái) từ Mạc Tư
Khoa về, lần lượt tổ chức thành 3 nhóm:
1- Đầu tháng giêng năm1928, Sử Đường
(Thi Thúc Vân), Lương Cán Kiều, Trần Diệc Mưu thành lập "Trung Quốc đệ nhất
Thác phái" (Phái phản đối chủ nghĩa Bolshevik Lenin tại Trung Quốc).
2 - Phái Troskism phản đối bí mật của lưu học
sinh Trung Quốc tại Liên Xô, sau khi họ về nước, phia Liên Xô cung cấp danh
tính, nên toàn bộ đã bị khai trừ hoặc tự ly khai Đảng. Vương Văn Nguyên, Lưu
Nhân Tĩnh, Ngô Quý Nghiêm, Lê Thái Liên đều ở trong số đó. Tháng giêng năm
1930, Lưu Nhân Tĩnh, Vương Văn Nguyên thành lập "Liên minh cộng sản Phái Tả
Trung Quốc" - "Thập nguyệt xã".
3 - Nhóm Triệu Tế, Lưu Dân, Vương Bình
gồm 7 người, sau khi từ Mạc Tư Khoa về, thành lập tổ chức "Chiến đấu
xã".
Trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc,
Trần Độc Tú, Doãn Khoan, Bành Thuật Chi, Trịnh Siêu Lân phát hiện Vương Bình
trong nhóm lưu học sinh từ Mạc Tư
Khoa về, chẳng những đã tiếp thu lý thuyết của Léon Troski mà còn mang theo tài liệu
nghiên cứu, đồng thời có ý kiến khác biệt đối với tiến trình cách mạng Trung Quốc. Từ
đó, trong Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hình thành phái Troskism do Trần Độc Tú cầm
đầu. Thật ra, lúc ấy, Đảng Cộng sản Trung Quốc chưa có một tổ chức cụ thể mà chỉ
tập hợp xung quanh Trần Độc Tú một số thành viên thường xuyên trao đổi với nhau
về những vấn dè chính sách của Đảng mà thôi. Trong tình hình ấy, nhòm Trần Độc
Tú đề nghị gia nhập nhóm "Đối thoại" nhưng nhiều lần bị cự tuyệt, đến
tháng chín năm 1929 thành lập "Đảng Cộng sản Trung Quốc phái Tả phản đối
phái", xuất bản "Người vô sản" được gọi là "Vô sản giả
xã".
Bốn phái Troskism sau được thống nhất
thành một tổ chức. Ngày 1 tháng năm năm 1935, triển khai Đại hội gồm 17 đại biểu
chính thức, 4 đại biểu dự thính, đại diện cho 482 đảng viên. Tại Đại hội, Trần
Độc Tú đọc báo cáo cương lĩnh chính trị của "Đảng Cộng sản Trung Quốc phái
Tả phản đối phái" gồm 5 phần:
1- Nhiệm vụ thời kỳ quá dộ của Phản đối
phái.
2 - Bài học kinh nghiệm về sự thất bại
của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
3 - Chính sách của Đảng trong thời kỳ
quá độ.
4 -Tiền đồ cách mạng Trung Quốc.
5 - Nhiệm vụ trước mắt của Phản đối
phái.
Cương lĩnh xác định, xã hội Trung Quốc
thành phần tư bản chủ nghĩa chiếm ưu thế so với tư bản chủ nghĩa xã hội, do đó
mà xuất hiện tính chất của cách mạng Trung Quốc là cách mạng xã hội chủ nghĩa,
giai cấp vô sản lãnh đạo nông dân lật đỏ chính quyền tư sản, "kiến lập
giai cấp chuyên chính vô sản'. Trung Quốc phải hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng
dân chủ tư sản rồi mới tiếp tục tiến trình Cách mạng vô sản, chuyên chính giai
cấp. Nhiệm vu trước mắt là, triệt để thực hiện khẩu hiệu dân chủ theo hướng
Cách mạng lần thứ ba (Sau này đề xuất lấy "Tổng tuyển cử quốc dân hội nghị"
làm khẩu hiệu trung tâm đấu tranh đòi dân chủ, vận động quần chúng ủng hộ cách
mạng), lạt đổ chính phủ Quốc dân đảng. Đại hội thông qua dự thảo cương lĩnh, bầu
ủy viên Trung ương, cử 5 người vào Ban Bí thư do Trần Độc Tú làm Tổng Bí thư,
Trịnh Siêu Lân là trưởng ban Tuyên truyền, chủ nhiệm báo Đảng là Vương Văn
Nguyên, trưởng ban Thư ký là Tống Phùng Xuân. Đại hội biểu quyết thông qua tên
đảng là "Đảng cộng Tả phái tả phản đối phái" còn gọi là " Đảng cộng
sản Bolshevik-Lenin Trung Quốc", là một phái riêng của những người cộng sản
Trung Quốc.
Năm 1933, phái Troskism ly khai Đảng Cộng sản, tiến hành cải
tổ đảng theo đương lối riêng. Năm 1935 chuẩn bị thành lập Quốc tế cộng sản mới. Cũng trong năm
này, Đại hội đại biểu phái Troskism tại Thượng
Hải quyết định đổi tên thành "Liên minh Cộng sản chủ nghĩa Trung Quốc".
Từ đó, phái Troskism Trung Quốc, một lần nữa không coi mình là một phái lệ thuộc
Đảng cộng sản và cũng không cùng là một chính đảng cộng sản chủ nghĩa của Đảng
Cộng sản.
Trong một hoàn cảnh đặc biệt, tôi gặp được Phó Đại Khánh.
Đó là thời gian vào giữa mùa hè và mua thu năm 1931. Khi ấy tôi đã bị Đảng Cộng
sản khai trừ, vì hoạt động Troskism, bị Quốc dân đảng bắt giam ở Bộ tư lệnh Cảnh
bị Long Hoa (tác giả nhận định: địa điểm ở gần khuôn viên lăng liệt sĩ Long
Hoa, đường Tào Khê, Thượng Hải), chờ đợi phán quyết. Tôi ở "Nhân tự
gian", nơi có rất nhiều tù chính trị. Một hôm, cai ngục dẫn vào một phạm
nhân đến từ Quảng Châu. Thoạt nhìn, tôi xuýt nữa tôi nhảy dựng lên bởi người
này chính là Phó Đại Khánh. Phó Đại Khánh lướt nhìn hết lượt phạm nhân nhưng đều
không nhận ra ai quen, bỗng trông thấy tôi, vội vàng chạy đến, khẽ bảo:
"Có chút việc muốn báo về Trung ương". Rõ ràng ông không biết tôi đã
bị khai trừ, tuy nhiên lúc này cũng chẳng cần phải nói mình thuộc phái
Troskism. Tôi đống ý, ông ấy bèn nói cho biết.
Nguyên là Phó Đại Khánh làm báo tiếng
Anh ở Calcutta, Ấn Độ. Tờ báo bị đóng cửa, Phó bị bắt, dẫn độ về Nam Kinh thẩm
vấn. Lúc bị giam ở nhà lao Quảng Châu, ông ta có gặp Hồ Chí Minh. Hồ nhờ ông ta
thông báo đến Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm cách giải cứu, vì thế ông
ta mới đề nghị tôi giúp đỡ. Vì nghĩa không thể từ chối, hơn nữa, tôi và Hồ Chí
Minh đã từng quen biết nhau, chỉ có điều, làm cách nào chuyển tin cho Đảng Cộng
sản Trung Quốc đây? Tôi suy nghĩ và dự đoán, ở nhà giam Long Hoa nhất định phải
có chi bộ Đảng bí mật, có thể truyền đạt được tin này. Nhưng tôi lại không biết
người phụ trách là ai. Trong số các chính trị phạm ở "Nhân tự gian",
tôi chỉ biết hai người là
Trần Vi Nhân và Quan Hướng Ứng. Đắn đo mãi, cuối cùng tôi tìm gặp Trần Vit
Nhân, nói: "Phạm nhân Phó Đại Khánh bị bắt ở Ấn Độ, vừa được giải đến, sẽ
được đưa về Nam Kinh. Ông ấy có một báo cáo quan trọng với Trung ương, nhờ tôi
chuyển đến ông". Trần Đạt Nhân lập tức đứng lên. Tôi đem lời Phó Đại Khánh
nói không sai một chữ. Nghe xong, Trần Vi Nhân không nói một lời. Tôi hiểu mình
đã đạt được mục đích. Ba ngày sau, Phó Đại Khánh bị giải đi.
THIÊN III
Những năm tháng phiêu bạt
Màn một
Hồ Chí Minh
ở Liên Xô (1933 - 1938)
Sau năm 1923, có đến bảy, tám lần Hồ Chí Minh đến Mạc Tư
Khoa. Thời gian lưu lại thường không quá một năm, duy chỉ có lần từ năm 1933 đến
năm 1938 là ở đến 5 năm. Trong 5 năm ấy, phong trào cách mạng Việt Nam chống
Pháp vô cùng sôi nổi, vậy vì sao Hồ Chí Minh lại bị giam lỏng ở Mạc Tư Khoa, dùng thời gian nhàn rỗi để
nghiên cứu chủ nghĩa Marx mà không trở về nước cùng các đồng chí của mình chỉ đạo
quần chúng đấu tranh? Việc này nếu đem so sánh với phong cách hoạt động tích sực
của Nguyễn Ái Quốc thì hoàn toàn khác nhau. Vì sao Hồ Chí Minh không báo cáo với Quốc tế cộng sản về hoàn cảnh của
mình? Kỳ lạ hơn nữa, trong 5 năm ấy, những ghi chép về Hồ Chí Minh khiến người ta đặt ra đặt
dấu hỏi nghi ngờ về thân phận cũng như các mối quan hệ của ông khá bí hiểm và
phức tạp. Ví như, thời gian nào Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa? Vì sao hói đầu và bị phán
quyết tử hình? Vì sao bị cưỡng chế học tập cải tạo? Vì sao ở Đại hội VII Quốc tế
cộng sản chỉ đóng vai im lặng? Lại vì sao nhẫn nhục chịu đựng khi mà vợ mình kết
hôn với người khác? Năm 1938 rời khỏi Mạc Tư Khoa theo chỉ thị của ai? Vì sao
trên đường ngàn dặm tìm đến Diên An Trung Quốc mà không quay về Việt Nam? Vô số
những điều nghi vấn đặt ra chứng tỏ bên trong ẩn giấu nhiều bí mật.
Nhiều hồ sơ đã được Quốc tế cộng sản giải mật nhưng không
phải là tất cả. Thành ra, như William J. Duiker nói: "Rõ ràng những tài liệu
quan trọng đã có ở đó nhưng trước sau vẫn không thấy". Đơn cử như trường hợp Hồ Chí Minh bị phán xử tử hình hiện tại
ở đâu? Vì sao "Hồ Chí Minh tự truyện" hai lần xuất bản lại có năm
sinh khác nhau là 1890 và 1893? Hồ sơ lưu của Quốc
tế cộng sản có một phần từ 17 tháng tư năm 1938 viết, bút danh P. C. Lin trong
tự truyện có phải tự truyện của Nguyễn Ái Quốc hay là tự truyện của Hồ Tập Chương? Vợ Nguyễn Ái Quốc là
Nguyễn Thị Minh Khai vì sao lại tự mình điền vào bản khai cá nhân đã kết hôn,
chồng tên là Lin (Lâm), trong khi ấy, ngay trước mặt Lin lại làm lễ thành hôn với
Lê Hồng Phong? Có quá nhiều những dấu hiệu không bình thường ấy đã chứng tỏ, những
ghi chép về thân phận Hồ Chí Minh có vẻ như đã bị sửa chữa hoặc thay đổi. Vì
sao Quốc tế cộng sản phải làm như
vậy? Căn cứ vào những manh mối qua các ghi chép mơ hồ mà phân tích, chỉ có một
khả năng là, người ta đã cố ý đem Hồ
Tập Chương hoán đổi thành Nguyễn Ái Quốc để đạt mục đích "mượn xác hoàn hồn".
Hồ Chí Minh đến Mạc
Tư Khoa vào thời gian nảo?
Hồ Chí Minh rời Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa khi nào? Có nhiều ý kiến
khẳng định là không thể xác định được thời gian cụ thể. William J. Duiker cho rằng
vào mùa xuân năm 1934. Sophie
Quinn - Judge căn cứ vào chữ ký "Lin" trong "Tự truyện" dẫn
lời Hồ Chí Minh kể, tháng bảy năm 1934, ông mới đến Mạc Tư Khoa" nhưng lại tỏ ra nghi
ngờ, không có bất cứ tài liệu nào làm rõ, từ mùa thu năm 1933 đến những tháng đầu
năm 1934 ông ở đâu? Cả William J. Duiker lẫn Sophie
Quinn - Judge đều cho rằng, thời gian Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa căn cứ vào lúc Hồ Chí Minh rời Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa chỉ là suy đoán. Tuy
nhiên, thời gian Hồ Chí Minh rờiThượng Hải, bản thân nó vẫn là một
câu đố. Riêng quan điểm cá nhân, tôi cho rằng, thời gian ấy vào cuối năm 1933,
muộn lắm cũng không quá mùa hè.
Thời gian Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa liệu có khó xác minh đến
như vậy không? Vào lúc Hồ Chí
Minh đến Mạc Tư Khoa, phô trương
náo nhiệt, được Bí thư thứ nhất Cục Viễn Đông đón tiếp như nghi thức của bậc
anh hùng, khó có thể làm thủ tục xuất nhập cảnh nếu không có những ghi chép của
hải quan về nhân thân. Những năm ba mươi của thế kỷ XX, Nga Xô đang ở vào thời
kỳ đại thanh trừng. Mọi công dân đều bị giám sát , có thể bị điều tra, bắt giữ
hoặc xử tử bất cứ lúc nào nếu được gán cho tội danh "kẻ thù của nhân
dân". Tác phẩm "Chân dung bạo chúa" của An Đông Lạc Phu. Áo Phí
Thân Khoa (2) đã viết: "Từ năm 1935 đến năm
1940, Liên Xô đã bắt giữ 19 triệu 840 nghìn người, trong đó có 7 triệu người bị
chết". Mạc Tư Khoa là trung tâm cao độ giám sát, khống chế một cách ráo riết
mọi lời nói và hành vi của người dân".
Những tài liệu ghi chép về thời
kỳ Hồ đến Mạc Tư Khoa rất dễ dàng nhận biết, vậy vì sao Quốc tế cộng sản không
có tài liệu khi ông nhập cảnh? Nhất định là phải có nguyên nhân đặc biệt không
thể tiết lộ nên đã giấu kỹ thậm chí tiêu hủy. Lại như, vào đầu năm 1923, khi
Nguyễn Ái Quốc đến Mạc Tư Khoa thì trong truyện có viết không? Đến năm 1938,
nghĩa là 15 năm sau, tuyệt nhiên chẳng có trang nào ghi chép sự kiện này. Thời
gian nào Hồ Chí Minh bị phán xử tử
hình? Hồ sơ điều tra vụ án này hiện ở đâu? Từ rất nhiều những chi tiết bất hợp
lý trên, tôi suy đoán là, các hồ sơ liên quan đều đã bị tiêu hủy.
Căn cứ vào thời gian Hồ Tập Chương rời
Thượng Hải và suy đoán, ông đến Mạc
Tư Khoa vào khoảng từ mùa xuân đến mùa hè năm 1933.
Sự thật về sự kiện Hồ Chí Minh bị kết án tử hình
Theo Sophie Quinn - Judge, vào năm
1992, cùng với Anatoly Voronin là cựu Ủy viên Trung ương Bộ Quốc tế, nói chuyện
về những tư liệu đã được ghi chép: " Hồ Chí Minh chịu sự điều tra của tổ 3
người gồm Dmitry Manuilsky, Vera Vasilieva và trùm dặc vụ Trung Quốc Khang
Sinh. Dmitry Manuilsky thuộc thành phần trung lập, trong khi Khang Sinh giữ
quan điểm đề nghị xử tử Hồ Chí Minh. VeraVasilieva lấy lý do phải làm theo
trình tự để tránh sai lầm do mình còn thiếu kinh nghiệm, đã thay Hồ Chí Minh
bào chữa. Đến năm 1935, Khang Sinh mới tin Hồ Chí Minh bị bắt vào năm 1931 nên
đã đề nghị khai trừ ông ra khỏi đảng. Tuy nhiên vẫn còn thiếu một số tài liệu
quan trọng có khả năng đã bị Cục An ninh Liên Xô giấu đi, vì thế chúng ta không
thể nào biết được Hồ Chí Minh bị chỉ trích nghiêm trọng đến mức nào.
Do nhu cầu chính trị, Hồ Chí
Minh đã có những quyết sách
nhiều khi vượt ra ngoài phạm vi quyền hạn, đặc biệt vào giai đoạn những năm
1930. Cũng có khả năng Hồ Chí Minh ngả theo con đường Lý Lập Tam khiến Khang
Sinh nghi ngờ, nhưng Dmitry Manuilsky và Vera Vasilieva vẫn giữ quan điểm. vì
thế, khi biểu quyết hình thức kỷ luật, trùm đặc vụ Trung Quốc bị thiểu số".
Đoạn ghi chép trên là của Sophie - Quinn Judge trong tác phẩm "Những năm
tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", trang 207.
Án tử hình của Hồ Chí Minh đối với
Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn không liên quan. Đối tượng bị điều tra không phải là
Nguyễn Ái Quốc. Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái
Quốc đã chết vì bệnh lao phổi. Khoảng giữa xuân hè năm 1933, người từ Thượng Hải
đi Mạc Tư Khoa là Hồ Tập Chương mà không phải Nguyễn
Ái Quốc. Huống nữa, Quốc tế cộng
sản đã cử đại biểu đến làm lễ truy điệu Nguyễn Ái Quốc, làm sao có thể truy cứu
trách nhiệm để xử án một người đã chết? Án đặc biệt điều tra Hồ Chí Minh, phần quan trọng nhất, có
liên quan đến việc chấp hành công tác được Quốc
tế cộng sản giao phó thời kỳ năm 1930. Đó
Ảnh chụp Nguyễn Ái Quốc
vào năm 1934 tại Mạc Tư Khoa (lấy từ tác phẩm "Tóm tắt về sự nghiệp Hồ Chí
Minh", NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007 là ông đã truyền đạt sai lạc chỉ
lệnh về công tác liên lạc giữa Trung cộng và Việt Cộng.
Rất có khả năng là vào năm 1930, Hồ
Chí Minh tham gia Hội nghị "Liên minh Trung Quốc phản đối chủ nghĩa đế quốc"
của Lý Lập Tam và ngả theo đường lối sai lầm của họ Lý ảnh hưởng đến Việt Nam,
làm cho Trần Phú và một số lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương bị bắt.
Đây là nguyên nhân khiến cho Lý Lập Tam và Khang Sinh đối với nhau như kẻ thù
không đội trời chung, dẫn đến hệ lụy là Hồ Chí Minh bị khai trừ khỏi Đảng Cộng
sản Trung Quốc, thậm chí trùm đặc vụ còn đề xuất mức án tử hình. Trong khi ấy,
Khang Sinh và Nguyễn Ái Quốc chưa từng quen biết nhau, lại không có mâu thuẫn
gì trong quan hệ để khép một người đã qua đời vào trọng tội.
Trong quá trình điều tra, Hồ Chí Minh
bị hói đầu, nhưng tấm ảnh lưu trong hồ sơ so với ảnh chụp Nguyễn Ái Quốc lại
không giống nhau (Hồ Chí Minh bị hói đầu trong tấm ảnh bên có đóng dấu và chữ
ký). Đặc biệt, tại bản báo cáo điều tra về Hồ Chí Minh năm 1934, ông dã tự điền
vào bản khai là sinh năm 1903, so với Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1890 thì chênh
nhau 13 năm. Nhân vật vào năm 1934 vào học trường Đại hoc Lenin, bí danh
P.C.Lin là Hồ Chí Minh mà nhân viên điều tra đã viết như sau: "Ông ta
không có gia đình, vợ con, không nghề nghiệp chuyên môn, không biết bất cứ ai
là lãnh đạo, cũng không biết mình có thể làm được công tác gì". Phần tử bị
điều tra này so với Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn trái ngược nhau. Bất cứ một điều
tra viên nào của Quốc tế cộng sản
cũng không thể tin được mình đang điều tra về Nguyễn Ái Quốc. Huống chi, từ năm
1923 đến 1927, Nguyễn Ái Quốc đã hai lần lưu lại Mạc Tư Khoa, có hồ sơ lưu trữ
tại Quốc tế cộng sản. Thân phận chân chính của Hồ Chí Minh đã bị Quốc tế cộng sản che giấu nên đã nảy
sinh vô số câu hỏi nghi vấn. Từ sự kiện điều tra về án tử hình, chính là bằng
chứng rõ ràng khẳng định Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minh là hai người khác nhau. Hồ Chí Minh đã được Vera Vasilieva ra sức bảo
vệ may mắn thoát khỏi kiếp nạn.
Quốc tế cộng sản
đạo diễn vở kịch "Mượn xác hoàn hồn"
Từ năm 1929 đến 1933, Nguyễn Ái Quốc
và Hồ Chí Minh phân biệt nhau hoạt
động ở vùng Đông Nam Trung Quốc, Xiêm La và Singapore. Nội dung hoạt động của họ
không giống nhau, chỉ là ghi chép vào hồ sơ duy nhất một danh xưng Hồ Chí Minh
làm lịch sử bị lẫn lộn. Đặc biệt vào năm 1930, hai người cùng tổ chức thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1931, một người bị bắt ở Hương Cảng, một người bị bắt
ở Quảng Châu. Chuyện sờ sờ trước mắt nhưng lại bị Quốc tế cộng sản cùng với Trung cộng , Việt cộng che giấu quy về
cho một Hồ Chí Minh. Thậm chí, mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh
lao phổi, vậy mà đến đầu năm 1933 tự nhiên được dựng dậy, sau đó dùng Hồ Tập
Chương thay Nguyễn Ái Quốc, tạo ra một nhà cách mạng mới là Hồ Chí Minh tiếp tục
vai diễn trên vũ đài chính trị. Ai đã ra lệnh cho Hồ Tập Chương thay thế Nguyễn
Ái Quốc và đạo diễn vở kịch "Người chết sống lại"? Ai đã chỉ đạo Hồ
Chí Minh tiếp tục diến xuất trên vũ đài lịch sử và tính toán để lại cho hậu thế
một loại hồ sơ chắp vá, một tiểu sử lắp ghép về Hồ Chí Minh?
Căn cứ vào trước tác của các nhà
nghiên cứu về Hồ Chí Minh, kiên trì tìm kiếm, cuối cùng tôi cũng phát hiện ra
vô số điều bất hợp lý trong lịch trình hoạt động của Hồ Chí Minh, mới tìm được
cái cần tìm trong cả mớ bòng bong tư liệu thật giả lẫn lộn ấy. Như vén mây
thấy mặt trời, tôi nhìn ra chân tướng lịch sử, và phần nào giải thích được mối
quan hệ nhân quả của giai đoạn lịch sử này, đồng thời khâm phục thủ pháp cao
tay của đạo diễn đứng sau sân khấu. Ấy là những tay tổ của Quốc tế cộng sản, Trung cộng và Việt cộng chóp bu đã phối
hợp nhịp nhàng với nhau, tạo ra một nhân vật Hồ Chí Minh đầy bí hiểm.
Vera Vasilieva và Hồ Chí Minh
Vera Vasilieva là người chịu trách nhiệm
chính trong ban lãnh đạo Quốc tế
cộng sản về những vấn đề Việt Nam, từ khi Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng đã tham gia vào công tác giải
cứu. Trên đường đi, không ngờ, Nguyễn Ái Quốc bị bệnh qua đời. Vera Vasilieva
được cử làm người bào chữa cho Hồ Tập Chương, do vậy mà phát hiện ra Nguyễn Ái
Quốc và Hồ Tập Chương là hai người khác nhau, có hoàn cảnh khá giống nhau, thân
thế, ngoại hình, ngôn ngữ gần nhau, và nhất là thông thạo nhiều ngoại ngữ. Hai
người này từ năm 1929 đến 1931 cùng công tác tại Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản, cùng
được giao những công việc quan trọng, và đặc biệt là lại cùng bị bắt vào năm
1931.
Tuy vậy, Xung quanh sự kiện Nguyễn Ái Quốc rờiThượng Hải đến Mạc Tư Khoa, ngoài quan điểm
cho rằng ông đã qua đời trên đường đi vì bệnh lao phổi, còn một ý kiến khác là
cuộc trốn chạy thành công, có điều những chứng cứ đưa ra đều rất khó thuyết phục,
trong khi báo chí cộng sản đã đồng loạt đăng tin nhà cách mạng đã chết, thậm
chí đại biểu Quốc tế cộng sản còn đến dự lễ truy điệu. Từ những hoàn cảnh và điều
kiện phức tạp như vậy, Vera Vasilieva nảy ra ý nghĩ, đề nghị Hồ Tập Chương thay thế vai trò của
Nguyễn Ái Quốc, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của ông. Hơn thế nữa, Hồ Tập
Chương lại biết tiếng Nhật, có kinh nghiệm đấu tranh chống Nhật, càng phù hợp với
nhiệm vụ chống Nhật trước mắt của Liên Xô.
Vera Vasilieva bèn xin ý kiến Cục
Phương Đông, lên kế hoạch giáo dục 5 năm đào tạo Hồ Tập Chương thay thế cho Nguyễn Ái
Quốc. Việc làm của Vera Vasilieva
cùng với hồ sơ ghi chép của lịch sử dể lại đã chứng minh, Quốc tế cộng sản đã
bí mật chơi trò "phục sinh" cho người đã chết.
Các tấm ảnh này được lấy trong
"Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", của Sophie Quinn - Judge ở phần phụ lục.
Bên trái là Vera Vasilieva, bên
phải là Hồ Chí Minh. Ảnh chụp tại Mạc Tư Khoa, Liên Xô, năm 1934.
1- Cuối tháng chín năm 1931, Ban Hồ sơ Quốc tế cộng sản chuyển cho Vera
Vasilieva một bản tin với nội dung: "Sự kiện Nguyễn Ái Quốc bị đuổi ra khỏi
Đông Nam Á đã bị cự tuyệt". Vera Vasilieva vô cùng phấn khởi vội thông báo
với các bạn bè, đồng chí của Nguyễn Ái Quốc về tin này, đồng thời viết ba bản
tin bằng tiếng Nga ký tên Vasilieva.
2 - Mùa thu năm 1932, báo chí cộng sản
lần lượt đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi cùng với tin nhóm lưu
học sinh Việt Nam tại Mạc Tư Khoa đã tổ chức tang lễ và Quốc tế cộng sản cử đại
biểu đến truy điệu. (tác giả nhận xét: Chủ nhiệm Ban Việt Nam Vera Vasilieva chắc
là sẽ cử một người không quen biết Nguyễn Ái Quốc đến viếng tang, ít ra bà cũng
đã biết việc Nguyễn Ái Quốc bị
bệnh chết).
3 - Mùa hè năm 1934, Hồ Chí Minh từ Thượng Hải đếnMạc Tư
Khoa, Vera Vasilieva, Dmitry
Manuilsky và trùm đặc vụ Trung cộng Khang Sinh tạo thành nhóm ba người điều
tra, phán xét Hồ Chí Minh. Do được Vera
Vasilieva bảo vệ, Hồ Chí Minh
thoát khỏi án tử hình nhưng bị giữ lại Mạc
Tư Khoa học tập cải tạo, một mặt vào học trường Đại học Lenin, mặt khác nghiên
cứu về vấn đề dân tộc và chủ nghĩa thực dân thuộc địa.
4 - Tháng ba năm 1935, Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam họp tại Áo Môn thông qua một Báo cáo chính trị dài 32 trang. Hội nghị đã bầu
bổ sung 13 ủy viên Trung ương do Lê Hồng Phong làm tổng bí thư gồm 8 đại biểu
công nhân, 3 đại biểu trí thức, 1 đại biểu dân tộc thiểu số. (Tác giả nhận xét:
Hồ Chí Minh xếp cuối cùng trong số 13 ủy viên Trung ương tuyệt nhiên không phải
Nguyễn Ái Quốc. Xét về tiểu sử và quá trình hoạt động, thứ bậc của Nguyễn Ái Quốc
xếp quá xa so với Lê Hồng Phong trong danh sách các Ủy viên Trung ương đặt ra một
vấn đề đạo lý. Cho nên phải hiểu người xếp cuối cùng ấy là Hồ Tập Chương, bí
danh P.C.Lin. Bởi vì, lúc ấy, Nguyễn Ái Quốc đã chết, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị
Minh Khai cùng P.C.Lin ở Mạc Tư
Khoa tham gia Hội nghị VII Quốc tế cộng sản. Đưa P.C.Lin vào danh sách Ủy viên
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
hoàn toàn do Vera Vasilieva chủ trương).
5 - Tháng tư năm 1935, Đảng Cộng sản
Việt Nam gửi Ban bí thư Cục Phương Đông công khai khiển trách Hồ Chí Minh, yêu
cầu không để Hồ Chí Minh tham gia Hội nghị VIIQuốc tế cộng sản. Tổng bí thư Đảng
Cộng sản Xiêm La còn cho biết, trước năm 1930, Hồ Chí Minh không phải là đảng viên cộng
sản. Sau khi đọc văn bản kiến nghị, Vera Vasilieva trả lời Đảng Cộng sản Việt
Nam như sau: "Hồ Chí Minh đã dành ra 2 năm học tập nghiên cứu, không có thời
gian làm công việc khác, sau khi Hội nghị kết thúc, chúng tôi sẽ có kế hoach đặc
biệt giao cho ông ta". Ít lâu sau, Vera Vasilieva gửi một bức thư cho lãnh
đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc nói: "Đối với Nguyễn Ái Quốc, sau hai năm học
tập, nhất định sẽ hiểu được nội dung và mục đích của chương trình đào tạo, vì vậy,
không có lý do gì xử lý kỷ luật ông ta. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ có kế
hoạch đặc biệt sử dụng".
6 - Cuối năm 1935, Hồ Chí Minh trở lại trường Đại học
Lenin, năm 1936 chuyển sang Đại học Stalin làm giảng viên bộ môn Đông Nam Á bằng
tiếng Việt. Tháng tư năm 1936, một bản báo cáo đã chỉ rõ, Hồ Chí Minh và Vera
Vasilieva hợp tác xây dựng khóa trình giảng dạy bộ môn Đông Nam Á. Vera
Vasilieva nhận xét về vai trò giảng viên của Hồ Chí Minh như sau: "Được
làm việc với ông tôi thật vinh dự. Ông nghiên cứu về thực trạng xã hội trong nước
rất công phu, chỉ có điều chưa được hệ thống lắm. Ông vốn có nhiều kinh nghiệm
hoạt động cách mạng, nhưng cũng có lúc phạm phải sai lầm như sai lầm của người
dân vùng Đông Nam Á. Chúng tôi sẽ
nghiên cứu cải tiến, nâng cao, chắc chắn ông sẽ tiến bộ".
Trước khi kết thúc năm 1936, Vera Vasilieva lên kế hoạch chi 3000 dollars để bồi dưỡng cho 10 học
viên Đông Nam Á dự khóa huấn luyện 2 tháng. "Chúng tôi đã quyết định là,
có nên cử Hồ Chí Minh đã tốt nghiệp Học viện Mạc Tư Khoa đến tổ chức và chỉ đạo
khóa học này hay không?".
Nhưng ghi chép trên đã được lưu giữ tại
Hồ sơ Quốc tế cộng sản ở Mạc Tư Khoa. Trong "Truyện Hồ Chí Minh" của William
J. Duiker và "Những năm
tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", của Sophie Quinn - Judge đều
đã viết rất rõ ràng về sự kiện trên. Việc công khai bí danh P.C.Lin là Hồ Chí
Minh vào năm 1934, chắc chắn không phải là Nguyễn Ái Quốc. Quốc tế cộng sản yêu cầu Hồ Tập Chương lấy bí danh P.C.Lin để tiếp tục nhiệm vụ của Nguyễn Ái Quốc
mà chủ nhiệm đề tài Vera Vasilieva chính là người đạo diễn màn kịch "mượn
xác hoàn hồn", "dời hoa tiếp cây".
Việc học tập và cải tạo của Hồ Chí
Minh
Trong thiên "Ve sầu thoát xác thật
giả kiếp người", tôi đã trình bày kỹ: "Mùa xuân năm 1932, Nguyễn Ái
Quốc đã chết vì bệnh lao phổi, khoảng giữa mùa xuân và mùa hè năm 1933, người từ
Hạ Môn đến Thượng Hải rồi đi Mạc
Tư Khoa không phải Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ
Tập Chương". Hồ Tập Chương đến Mạc
Tư Khoa, Vera Vasilieva, Dmitry
Manuilsky, và trùm đặc vụ Trung cộng Khang Sinh, lập thành tổ đặc biệt ba người
điều ra về ông, chỉ cần sai phạm một điểm là bị tuyên án tử hình. May mà được
Vera Vasilieva bảo vệ, Hồ Tập Chương mới
thoát nạn. Tuy nhiên sau đó
ông phải mất gần 5 năm học tập, cải tạo để sau này thay thế vai trò Nguyễn Ái
Quốc. Trong 5 năm học tập cải tạo này, nhân vì Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương
liên quan đến việc chuyển đổi thân phận, nên hồ sơ của Quốc tế cộng sản không thể ghi chép rõ
ràng. Vì thế, chí có thể căn cứ vào những tài liệu liên quan, ta mới hiểu được
trong 5 năm ấy, Hồ Tập Chương, học tập cải tạo như thế nào.
Trong "Hồ Chí Minh ở Trung Quốc",
trang 81, 82, giáo sư Tưởng Vĩnh Kính có nói đến: "Từ năm 1933 đến mùa thu
năm 1938, Hồ Chí Minh ở Mạc Tư
Khoa, bị bắt buộc học tập cải tạo. Thứ trưởng Bộ Văn hóa Việt Nam Nguyễn Khánh
Toàn nhớ lại: 'Lúc ấy, khôngg khí khủng bố bao trùm, Hồ Chí Minh muốn gặp gỡ các đảng viên
Cộng sản Việt Nam đều phải xin phép nhà đương cục Mạc Tư Khoa. Nếu trước khi được phép
mà tự động gặp nhau thì không được nói chuyện'. Nguyễn Khánh Toàn kể tiếp: 'Các
đồng chí Việt Nam ở Mạc Tư Khoa lúc ấy đều không biết Hồ Chí Minh đã đến Liên Xô. Có một nữ
bí thư trong "Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa", nhân
việc gặp một đồng chí phụ trách "Tổ Việt Nam" nói chuyện, mới biết
tin ấy. Nữ đồng chí phụ trách "Tổ Việt Nam" này cũng là cán bộ Quốc tế cộng sản. (Tác giả nhận định:
đồng chí nữ bí thư chỉ Nguyễn Thị Minh Khai), xem "Chị Minh Khai", phần
2, mục 13, còn đồng chí nữ cán
bộ Quốc tế cộng sản phụ trách "Tổ Việt Nam", chỉ Vera Vasilieva). Sau mấy năm, tôi gặp
Hồ Chí Minh trên phố, nhưng do nguyên tắc tổ chức cũng không thể nói chuyện với
nhau. Mãi mấy năm sau nữa, chúng tôi mới chính thức được làm quen với ông. Hồ
Chí Minh một mặt học tập tại Học viện Lenin, mặt khác lại làm việc ở
Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Học viện
Lenin là trường Đảng huấn luyện cán bộ đảng viên các nước. Hồ Chí Minh khi ở học
viện này dùng bí danh bằng tiếng Nga là "Linov", nhưng tại Viện
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa thì lại dùng tên "Lin"
lãnh đạo tiểu tổ Việt Nam học tập. Tố chất học sinh Việt Nam rất kém, trình độ
thấp, phần lớn họ đến từ Pháp, có tiền sử thường là đầy tớ hoặc thủy thủ. Hồ
Chí Minh chỉ đạo nhóm này học tập chẳng khác gì dạy học sinh tiểu học. Mùa thu
năm 1934, Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa lại thành lập thêm một
tiểu tổ. Tiểu tổ này do một người mới đến Mạc
Tư Khoa là Lê Hồng Phong cùng
Nguyễn Thị Minh Khai và ba đảng viên cộng sản Việt Nam hợp thành. Lê Hồng Phong
phụ trách công tác Đảng, Hồ Chí Minh kiêm nhiệm chỉ đạo học tập. Vì lý do bảo mật,
hai tổ học tập Việt Nam bị cách ly hai địa điểm, không được liên lạc với nhau.
Sau Đại hội đại biểu Quốc tế cộng
sản VII, trước mắt Stalin, Hồ Chí
Minh hiển nhiên không có vai trò gì dáng kể. Ông ta chẳng những không phải là Ủy
viên chấp hành Quốc tế cộng sản
mà còn mất đi địa vị lãnh đạo Đảng
Cộng sản Việt Nam, thậm chí còn bị coi là phần tử không đáng tin cậy. Bị buộc
phải lưu lại Mạc Tư Khoa học tập
cải tạo, Hồ Chí Minh chẳng những
không thực hiện được nguyện vọng của mình mà còn rơi vào hoàn cảnh bị đối xử lạnh
nhạt.
Sau khi Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai lần lượt trở
về Việt Nam, Hồ Chí Minh lại theo học "Ban nghiên cứu lịch sử" thuộc
"Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa" một năm. Lúc này,
phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới đang sôi sục, Hồ Chí Minh làm sao có
thể yên tâm ngồi học tập? Trong "Truyện
Hồ Chí Minh", trang 212, William J. Duiker có dẫn ra hồi ức của một học
sinh là Nguyễn Khai Quyền như sau: "Nguyễn Ái Quốc được chỉ làm giảng viên
của 144 học sinh, văn phòng đặt tại tầng bốn của ngôi nhà thuộc đại lộ
Ulyanovsk Mạc Tư Khoa. Có một số thanh niên trẻ không hài lòng hoặc tỏ ra ngạo
mạn, thường chỉ vì một vài việc lặt vặt mà to tiếng với nhau. Lúc ấy thường là Nguyễn Ái Quốc phải đến hòa giải".
Ngoài ra, ở trang 227 , tác giả cũng nói đến: "Mùa thu năm 1936, tại Viện
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc sau khi soạn xong
bài giảng, lại từ Học viện Lenin trở về căn phòng nhỏ của minh trong ngôi nhà
thuộc đường phố Bố Lỗ nạp Nhã(3) (布魯納雅街). Học trình gồm triết học, lịch sử và Nga văn. Thế nhưng,
Bí thư thứ nhất Cục Viễn Đông lại
giao cho ông nghiên cứu về vấn đề nông dân, đồng thời phiên dịch 'Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản' của Karl Marx và 'Bàn về sự ấu trĩ của phái cực tả' của V.I.
Lenin sang tiếng Việt. Trong niên học 1937-1938, Nguyễn Ái Quốc vừa soạn giáo
trình, vừa làm việc tại văn phòng Bí thư thứ nhất Cục Viễn Đông, lại vừa giảng
dạy tại lớp, chuẩn bị cho công trình nghiên cứu về ruộng đất Đông Nam Á".
Sophie Quinn - Judge trong "Những năm tháng mất tích của
Hồ Chí Minh, 1911-1941", trang 217 có nói đến: "Cuối năm 1935, Hồ Chí
Minh trở lại Học viện Lenin, năm 1936 chuyển đến Học viện Stalin phụ trách giảng
dạy bộ môn Đông Nam Á bằng tiếng
Việt. Tháng tư năm 1936, một bản báo cáo chỉ rõ Hồ Chí Minh và Vera Vasilieva hợp tác
xây dựng khóa trình giảng dạy bộ môn Đông Nam Á. Vera Vasilieva lên kế hoạch chi 3000 dollars để bồi dưỡng cho 10 học
viên Đông Nam Á dự khóa huấn luyện 2 tháng. "Chúng tôi đã quyết định là,
có nên cử Hồ Chí Minh đã tốt nghiệp Học viện Mạc Tư Khoa đến tổ chức và chỉ đạo
khóa học này hay không?". Năm
1937, Học viện Stalin sắp xếp lại tổ chức, đưa những học sinh nước ngoài về bộ
môn " Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa". Hồ Chí Minh thuộc
hệ Lịch sử (kỳ thứ nhất), vừa là giảng viên, vừa là học sinh, tuy nhiên không
có biểu hiện gì là nhiệt tình trong học tập. Thành tích của ông ta đối với các
môn "Chủ nghĩa duy vật biện chứng", "Lịch sử cổ đại" cùng với
"Lịch sử trung đại" đều thuộc loại trung bình, chỉ có "Lịch sử
hiện đại" là xuất sắc. Với tư cách giảng viên, ông chỉ dùng Việt văn để giảng
khóa trình "Nghiên cứu Đông
Nam Á".
Trong tác phẩm "Chị Minh Khai",
tác giả Nguyệt Tú đã viết ở trang 73: "Đồng chí Nguyễn Ái Quốc dùng
'Linov' làm bí danh tại 'Viện nghiên
cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa'. Được sự ủy nhệm của Viện, đồng chí đến Đại
học Phương Đông giảng cho học sinh Việt Nam về lịch sử và tổ chức của Đảng Cộng
sản Liên Xô. Trong nhận thức của chị Minh Khai, đồng chí Nguyễn Ái Quốc phân
tích về quan điểm tư tưởng cộng sản Lenin vô cùng sâu sắc. Minh Khai và 5 học
sinh Việt Nam ở Đại học Phương Đông cũng biết Nguyễn Ái Quốc đã gửi Cục Phương
Đông Quốc tế cộng sản một lá thư,
đề cập đến việc giáo dục cộng sản còn thiếu phần lý luận của chủ nghĩa Marx -
Lenin, khiến cho công tác tuyên truyền của các đảng gặp nhiều khó khăn, thậm
chí còn phạm sai lầm nghiêm trọng. Vì thế việc xuất bản sách giáo dục lý luận về
Đảng Cộng sản dưới nhiều hình thức là điều cấp thiết phải làm. Đó cũng là điều
mà Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai hết sức quan tâm.
Thành quả 5 năm học tập cải tạo
Như trên đã nói, từ năm 1933 đến 1938, Hồ Tập Chương học tập cải tạo ở Mạc Tư Khoa. Quốc tế cộng sản tích cực
bồi dưỡng Hồ Tập Chương thành một
đại biểu Việt Nam của Quốc tế cộng
sản, tham gia Đảng Cộng sản Việt
Nam, hướng đến cách mạng giai cấp vô sản thế giới, thay thế Nguyễn Ái Quốc mà
không một ai hoài nghi. Hơn thế nữa, Vera Vasilieva đã hết sức đào tạo ông
thành một nhà lý luận kiêm thực tiễn cúa Chủ nghĩa Cộng sản. Trong 5 năm học tập
và rèn luyện này, Hồ Tập
Chương, ngoài việc nghiên cứu lý luận của Chủ nghĩa Cộng sản và lịch sử văn hóa
Việt Nam, ông còn tích cực học tập môn tiếng Pháp và tiếng Việt, nắm rõ từng
chi tiết nhỏ nhất trong hồ sơ lý lịch Nguyễn Ái Quốc. Hồ Chí Minh học Việt văn
và Pháp văn đến mức có thể nghe, đọc, viết, nói thành thạo, thậm chí còn phiên
dịch cả "Tuyên ngôn của đảng cộng sản" và "Luận về sự ấu trĩ của
phái cực tả" từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
Chỉ cần đọc mấy bài viết ở tập 3 trong "Hồ Chí Minh
toàn tập" dưới đây, độc giả sẽ thấy rõ ràng Hồ Tập Chương đã làm mọi cách
để tạo ra dấu vết Nguyễn Ái Quốc:
1 - Ngày 12 tháng mười năm 1937, Hồ Tập
Chương dùng tên Nguyễn Ái Quốc ký vào một bức thư viết bằng tiếng Pháp gửi một
người bạn Pháp là Marcel Gabriel, tỏ lòng vô cùng thương tiếc về việc Paul Vaillant Couturier từ trần. Tôi
đã tra cứu văn bản thư tín đối ngoại của Hồ
Chí Minh (bao hàm cả Nguyễn Ái Quốc) từ năm 1921 đến năm 1937, không có bất cứ
một bức thư nào gửi Paul Vaillant
Couturier hoạcMarcel Gabriel. Nguyễn Ái Quốc cũng không gửi một bức thư nào
chia buồn với các đồng chí Việt Nam đã hy sinh vì tổ quốc. Trái lại, đột nhiên
vào thời điểm này lại gửi thư tới Marcel Gabriel chia buồn về việc Paul Vaillant Couturier qua đời, ắt
không tránh khỏi người ta nghi ngờ cố ý ngụy tạo. Hồ Tập Chương có khá nhiều bài viết với
dụng ý hai mặt, một là bịa đặt P.C.Lin (Hồ Tập Chương) thành Nguyễn Ái Quốc, một
là Quốc tế cộng sản kiểm tra
trình độ tiếng Pháp của Hồ Tập
Chương. Trong bức thư có một đoạn như sau:
"Đồng chí Marcel Gabriel
thân mến! Chúng tôi vô cùng đau đớn được tin đồng chí Paul Vaillant Couturier từ trần. Đây
là một tổn thất lớn đối với Đảng Cộng sản Pháp, với giai cấp vô sản Pháp và vô
sản các nước thuộc địa cùng giai cấp vô sản thế giới. Vào lúc được tin đồng chí
qua đời, lòng tôi vô cùng thương cảm. Đối với tôi mà nói, Paul Vaillant
Couturier là một người đồng chí, một người anh em thân thiết. Chúng tôi quen biết
nhau không thể nào quên tại Đại hội Tour. Đến năm 1934, chúng tôi cùng nỗ lực
nghiên cứu về 'Chủ nghĩa thực dân' mà đồng chí đặc biệt quan tâm. Đồng chí là đại
biểu tổ chức 'Hội nghị hòa bình phản chiến' và đã đến Viễn Đông, do vậy, chúng
tôi gặp nhau tại Trung Quốc. Và lần ấy là một cơ hội, dồng chí đã giúp tôi
thoát khỏi cảnh khốn khổ.
Mùa hè năm ấy chúng tôi gặp nhau, cùng
thảo luận về vấn đề thực dân, đặc biệt là vấn đề Đông Dương. Giai cấp vô sản
các nước thuộc địa mất đi một chiến sĩ, một người bạn chân chính. Paul Vaillant
Couturier đã mất nhưng sự tận tụy công tác, phong cách mẫu mực và tinh thần
dũng cảm, bất khuất mãi mái sống trong lòng chúng ta. Học tập phẩm cách cao quý
của đồng chí, chúng tôi nguyện kiên trì đấu tranh cho đến khi sự nghiệp cách mạng
thanh công. Ngày 12 tháng mười năm 1937, Nguyễn Ái Quốc".
Ngày 6 tháng sáu năm 1938, cùng lúc
dùng cả tên Nguyễn Ái Quốc và P.C.Lin ký vào bức thư bằng tiếng Pháp gửi một đồng
chí Quốc tế cộng sản:
"Đồng chí thân mến! Hôm này là kỷ niệm 7 năm ngày tôi
bị cảnh sát Hương Cảng bắt giữ, nghĩa là dã 8 năm nay tôi không có bất
cứ hoạt động nào. Dịp này viết thư gửi đến đông chí, thỉnh cầu đồng chí giúp đỡ
tôi để có thể thay đổi hoàn cảnh hiện tại. Phân công tôi về địa phương hay giữ
tôi ở lại, mong đồng chí triệt để sử dụng. Đề nghị đồng chí không nên để tôi xa
rời tổ chức Đảng quá lâu. Tôi rất cảm kích nếu đồng chí cho phép được gặp mặt.
Mong đồng chí hãy tiếp kiến một người anh em cộng sản trung thành, tận tụy.
Ngày 6 tháng sau năm 1938, Lin (Nguyễn Ái Quốc).
(Tác giả nhận xét: Bức thư bằng tiếng
Pháp gửi một đồng chí Quốc tế cộng sản chính là gửi cho Vera Vasilieva. William
J. Duiker, trong "Truyện Hồ Chí Minh", trang 228 có viết: "Hồ Chí Minh
thông qua Vera Vasilieva nhờ giúp đỡ mới rời khỏi được Mạc Tư Khoa).
"Hồ Chí Minh toàn tập", văn
bản chính thức của nhà nước Việt Nam
Bộ "Hồ
Chí Minh toàn tập" có một số bản in màu đẹp, tôi đã dùng bộ sách 12 tập do
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia in năm 2002 để nghiên cứu. "Hồ Chí Minh toàn tập" gồm
những bài viết và nói bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Việt và Hán văn trong
cuộc đời hoạt động chính trị của ông. Nội dung văn bản ngắn thì chỉ có vài chục
chữ đối với thư chúc mừng, dài thì hàng ngàn vạn chữ đối với các chuyên khảo
như "Binh pháp Tôn Tử", "Chiến tranh du kích" v.v... Trước
tác của Hồ Chí Minh phần lớn là các bài viết đăng báo, tạp chí, ngoài ra còn có
một số lượng không nhỏ thư từ, thơ qua lại giữa bạn bè với nhau. Tôi đã căn cứ
vào thời gian, số bài, đặc trưng ngôn ngữ phân loại, chỉnh lý. Lấy năm 1932 làm
chuẩn để phân định, so sánh
những bài viết trước với bài viết sau, kết quả phát hiện ra hai điểm quan trọng, một là, tiếp tục khẳng định
Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932, và một là, Nguyễn Ái Quốc không thông thạo
Hán văn. Nay, tôi đem những bài viết được đưa vào "Hồ Chí Minh toàn tập", căn
cứ thời gian, sau khi chỉnh lý, kê ra được một bản dưới đây:
Bảng thồng kê các tác phẩm của Hồ
Chí Minh
Năm
|
Số
bài
|
Ngữ
văn
|
Loại
hình
|
1919
|
7
|
Tiếng
Pháp
|
Chuyên
văn 3, thư từ 3, phỏng vấn 1
|
1920
|
2
|
Tiếng
Pháp
|
Chuyên
văn 1, bài giảng 1
|
1921
|
14
|
Tiếng
Pháp
|
Chuyên
văn 12, thư từ 1, báo cáo 1
|
1922
|
35
|
Tiếng
Pháp
|
Chuyên
văn 33, thư từ 2
|
1923
|
35
|
Tiếng
Pháp
|
Chuyên
văn 30, bài giảng 2, thư từ 2, phỏng vấn 1
|
1924
|
62
|
Pháp
13, Anh 1, Nga 8
|
Chuyên
văn 44, thư từ 12, bài giảng 5, phỏng vấn 1
|
1925
|
24
|
Pháp
13, Anh 9, Nga 2
|
Chuyên
văn 13, thư từ 8, bài giảng 2, chuyên khảo 1 (100 trang)
|
1926
|
19
|
Pháp
10, Anh 4, Nga 2, Trung 1
|
Chuyên
văn 10, thư từ 8, bài giảng 1
|
1927
|
11
|
Pháp
8, Anh 3
|
Chuyên
văn 9, thư từ 2, sách 1 "Đường kách mệnh", 52 trang
|
1928
|
12
|
Pháp
11, Anh 1
|
Chuyên
văn 7, thư từ 5
|
1929
|
0
|
Nguyễn
Ái Quốc ở Xiêm La chữa bệnh
|
|
1930
|
18
|
Pháp
5, Anh 11, Việt 1, Nga 1
|
Chuyên
văn 6, thư từ 12, trong đó có 4 bài không rõ ngôn ngữ nào, tạm xếp vào tiếng
Anh
|
1931
|
9
|
Pháp
3, Anh 5, Việt 1
|
Chuyên
văn 3, thư từ 6
|
1932
|
0
|
Nguyễn
Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng sau đó trốn khỏi Hương Cảng
|
|
1933
|
0
|
Hồ
Chí Minh lưu vong ở Trung Quốc, Việt Nam và Xiêm La
|
|
1934
|
0
|
Thời
gian Hồ Chí Minh lưu vong ở Mạc Tư Khoa
|
|
1935
|
Tiếng
Pháp 1
|
"Báo
cáo"(thời kỳ Hồ Chí Minh lưu vong ở Mạc Tư Khoa)
|
|
1936
|
0
|
Thời
kỳ Hồ Chí Minh lưu vong ở Mạc Tư Khoa
|
|
1937
|
1
|
Tiếng
Pháp
|
Thời
kỳ Hồ Chí Minh lưu vong ở Mạc Tư Khoa (thư)
|
1938
|
2
|
Tiếng
Pháp
|
Thư
và báo cáo (8 trang)
|
1939
|
11
|
Pháp
3, Trung 8
|
Chuyên
văn 3, thư từ 8 (Thời kỳ Hồ Chí Minh ở Mạc Tư Khoa)
|
1940
|
12
|
Tiếng
Trung 12
|
Chuyên
văn 11, thư từ1 (Viết từ TQ gửi về VN)
|
1941
|
12
|
Trung
3, Việt 9
|
Chuyên
văn 10, thơ 2
|
1942
|
19
|
Trung
5, Việt 14
|
Chuyên
văn , thơ ( Trung 2, Việt 8), giảng nghĩa: "Du kích chiến", Thơ:
"Nhật ký trong tù" 134 bài
|
1943
|
2
|
Việt
văn 2
|
Chuyên
văn 1, thư từ 1
|
1944
|
8
|
Trung
2, Việt 6
|
Chuyên
văn 3, thư 4 , sách "Phương pháp chiến tranh du kích", 13 chương
|
1945
|
86
|
Anh
8, Trung 5, Việt 73
|
Sách
"Binh pháp Tôn Tử" 13 chương, "Thư Tổng khởi nghĩa",
"Tuyên ngôn độc lập", chuyên văn, thư từ, bài nói chuyện
|
1946
|
175
|
Tiếng
Việt 175
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1947
|
164
|
Việt163,
Pháp1
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1948
|
108
|
TiếngViệt104,
tiếng Trung 4
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo, thơ chữ Hán 4 (đăng trên báo chí Việt
Nam)
|
1949
|
114
|
Tiếng
Việt 114
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1950
|
81
|
Việt
79, Trung 2
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo, thơ chữ Hán 2 (đăng trên báo chí Việt
Nam)
|
1951
|
120
|
Tiếng
Việt 120
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1952
|
116
|
Tiếng
Việt 116
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1953
|
79
|
Tiếng
Việt 79
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1954
|
96
|
Tiếng
Việt 96
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1955
|
73
|
Tiếng
Việt 73
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1956
|
86
|
Tiếng
Việt 86
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1957
|
99
|
Tiếng
Việt 99
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1958
|
98
|
Tiếng
Việt 98
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1959
|
150
|
Tiếng
Việt 150
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1960
|
109
|
Tiếng
Việt 109
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1961
|
85
|
Tiếng
Việt 85
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1962
|
78
|
Tiếng
Việt 78
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1963
|
71
|
Tiếng
Việt 71
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1964
|
64
|
Tiếng
Việt 64
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1965
|
86
|
Tiếng
Việt 86
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1966
|
83
|
Tiếng
Việt 83
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1967
|
65
|
Tiếng
Việt 65
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1968
|
60
|
Tiếng
Việt 60
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
1969
|
36
|
Tiếng
Việt 36
|
Thư
từ, chuyên khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt Nam)
|
Thuyết
minh:
* Ngữ văn: Ghi chú Tiếng
Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nga và tiếng Việt là căn cứ vào "Hồ
Chí Minh toàn tập", phần cuối cùng có chú thích "Tư liệu tiếng
Pháp", "tư liệu tiếng Anh", "tư liệu tiếng Trung". Tác
giả dựa vào nơi công bố như báo, tạp chí, nhà xuất bản, ví dụ: Hà Nội, báo
"Độc lập", Nhà xuất bản Sự thật, xếp vào mục "Tư liệu tiếng Việt".
* Từ năm 1919 đến 1923, bài được công bố trên các báo, tạp
chí, nói chuyện, bài giảng, thư từ, bên dưới đều ghi chú: "Tư liệu đánh
máy tiếng Pháp" hoặc công bố trên báo, tạp chí tiếng Pháp.
* Năm 1924 có 8 bài công bố trên mục "chuyên luận"
các tạp chí tiếng Nga có một bản viết tay bằng tiếng Anh, còn lại đều ghi là
"Tư liệu đánh máy tiếng Pháp" hoặc "Đã công bố trên báo và tạp
chí tiếng Pháp".
* Năm 1925, có một thiên gần trăm trang, chia thành 12
chương tố cáo và lên án chế độ thực dân Pháp. Từ năm 1925 đến 1927, Nguyễn Ái
Quốc lấy bí danh là Vương Đạt Nhân, thời kỳ ở Quảng Châu đã xuất bản tờ báo
"Thanh niên" gửi về Việt Nam truyên truyền, ghi chú là chuyển dịch từ
bản tiếng Pháp.
* Đầu năm 1926, có 2 thiên được ghi chú dẫn từ bản thảo của
Viện Bảo tàng Cách mạng Quảng Châu, trong đó, một thiên là bức thư gửi Đoàn chủ
tịch Đại hội đại biểu toàn quốc Quốc dân đảng Trung Quốc, chưa xác định được là
tư liệu bằng ngôn ngữ nào. Ngoài ra, một thiên bản thảo diễn giảng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc Quốc dân đảng Trung Quốc lần thứ II có ghi chú: "Tư liệu
chữ Hán. Bộ "Hồ Chí MInh toàn tập" phần trước năm 1932 này, chỉ duy
nhất có 1 tư liệu chữ Hán, tuy nhiên không biết có phải Nguyễn Ái Quốc viết hay
không., tôi rât nghi ngờ.
Cũng trước đó khong lâu, Nguyễn Ái Quốc còn phải học Trung
văn từ Đặng Dĩnh Siêu, vậy mà trong Đại hội lại tự mình diễn giảng thì chắc là
nói bằng tiếng Pháp thông qua tư liệu Trung cộng do Lý Phú Xuân phiên dịch.
Khoảng tháng mười một đến tháng mười hai năm 1926, có 8 bài
với tiêu đề "Sự biến Các Thung của Trung Quốc", miêu tả tình hình Quốc
Cộng hợp tác
* Năm 1927, ở Quảng Châu xuất hiện cuốn sách "Đường
kách mệnh" 52 trang, chia thành 16 tiêu đề, theo tư cách của nhà cách mạng
bàn đến việc hợp tác quốc tế. Phần ghi chú không thấy nói đến tư liệu được viết
bằng ngôn ngữ nào, nhưng theo nội dung là gửi về để tuyên truyền cách mạng ở Việt
Nam. Tác giả nghiên cứu , suy đoán thấy văn chương của cuốn sách thuộc
dòng báo "Thanh
niên", vốn được viết bằng tiếng Pháp.
* Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc không còn lưu lại bài viết nào.
Ngô Đức Trị nói, sau khi nhận được báo cáo của Nguyễn Ái Quốc : "Ông ta đi
Xiêm La già một năm, không làm được bất cứ việc gì". Từ đó ta có thể thấy,
trong năm ấy Nguyễn Ái Quốc không có một liên lạc nào với Quốc tế cộng sản, chỉ đến khi
"Thanh niên đồng chí hội" cử người đến Xiêm La yêu cầu ông ta đến Hương Cảng hòa giải việc tranh chấp giữa
các đảng phái, đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc mới về Quảng Châu để sang Hương Cảng.
* Đầu năm 1930, viết 5 bài:
"Chính cương của đảng", "Sách lược của đảng", "Chương
trình của đảng", "Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam", "Lời kêu
gọi". Những bài này đều không ký tên, cũng không ghi rõ nguồn gốc văn bản,
rất chung chung. (Dẫn từ "Văn kiện của Đảng"). Tác giả xác định, 5
bài viết trên, tương ứng với thời kỳ Hồ Tập Chương gửi báo cáo lên Quốc tế cộng sản. Đặc biệt bài "Lời
kêu gọi", phần cuối có ghi tên Nguyễn Ái Quốc, bút tích bằng tiếng Anh,
hình như không phù hợp với phong cách văn chương Nguyễn Ái Quốc. Thông thường,
lúc liên lạc hay viết báo cáo Nguyễn Ái Quốc mới sử dụng tiếng Anh, còn phần lớn
đều viết bằng tiếng Pháp. Rất khó có chuyện, viết bài kêu gọi đồng bào trong nước
đấu tranh chống thực dân, đế quốc lại dùng thứ tiếng nước ngoài trong khi hầu hết
nhân dân đều không biết chữ. Lại nói, "Lời kêu gọi"có một đoạn cường
điệu, chứng tỏ "lạy ông tôi ở bụi này" (nguyên văn "thử địa vô
ngân tam bách lượng"): "Tôi là Nguyễn Ái Quốc, trân trọng ngẩng cao đầu
nói với đồng bào thuộc các thành phần công nhân, nông dân, binh sĩ, thanh niên,
học sinh bị áp bức! các anh chị em! các đồng chí!"...là thứ ngôn ngữ chưa
bao giờ Nguyễn Ái Quốc sử dụng, đặc biệt là đoạn mở đầu: "Chấp hành chỉ thị
của Quốc tế cộng sản, giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành
nhiệm vụ, đồng thời còn nhận trách nhiệm chuyển sang cho anh chị em, cho các đồng
chí". Cường điệu "chấp hành chỉ thị", "giải quyết vấn đề
cách mạng ở nước ta" v.v...đều rất không phù hợp với cách sử dụng ngôn ngữ
của Nguyễn Ái Quốc.
Lại nữa, ngày 28 tháng hai năm 1930,
Nguyễn Ái Quốc gửi một bức thư cho các đồng chí Liên Xô: "Người An Nam, đặc
biệt là người lao động luôn hướng về nước Nga cách mạng. Phàm là báo chí có
liên quan đều bị chế độ hà khắc của thực dân Pháp cấm đoán, huống hồ, đại bộ phận
công nhân và nông dân An nam mù chữ, cho dù có biết chữ, thì người An nam chỉ đọc
được chữ An Nam mà thôi. Chúng ta có nhiệm vụ là giới thiệu cho mọi người hiểu
biết về tổ quốc và giai cấp của nhà nước Cộng sản này. Để hoàn thành nhiệm vụ,
chúng ta nên có ké hoạch dùng chữ An Nam viết một cuốn sách...". Điều đó
chứng tỏ khả năng vận dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ái Quốc khác hẳn với ngôn ngữ của Hồ Chí Minh thay thế ông hoạt động sau
này. Những bài viết từ năm 1930 trở về sau còn lưu lại, phần lớn là do Hồ Tập
Chương chấp bút. Phàm là những ghi chép bằng tiếng Anh, thư gửiQuốc tế cộng sản
đều không phải do Nguyễn Ái Quốc viết. Điều này rất cần sự nỗ lực nghiên cứu,
giám định, phân tích của các nhà chuyên môn có hứng thú với chuyên đề Hồ Chí Minh.
* Từ đầu năm 1931 đến 24 tháng tư năm 1931 ngừng viết, có 9
bài. Thời kỳ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng xuất hiện, cùng hoạt động với
nhau, trong đó, phần lớn các bản báo cáo đều do Hồ Tập Chương chấp bút. Có một
bức thư phần cuối chỉ ghi năm mà không có ngày tháng bằng tiếng Anh gửi Quốc tế cộng sản, theo phán đoán cũng
là do Hồ Tập Chương viết.
* Từ năm 1932 đến năm 1934, không có bất
cứ bài viết nào lưu lại. Tháng sáu năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị bắt giam, năm
1932, mùa thu, chết vì bệnh lao phổi, trong khi đó, Hồ Tập Chương bị bắt giam từ
tháng bảy năm 1931, sau đó thoát được, đến Mạc
Tư Khoa vào khoảng giữa mùa xuân đến mùa hè.
* Năm 1935, chỉ có 1 bức thư còn lưu tại Ủy viên hội Phương
Đông Quốc tế cộng sản, ký tên P.C.Lin bằng tiếng Pháp. Nội dung là,
"P.C.Lin" hoặc "Lin", từ những kinh nghiệm hoạt động có được
ở Hoa Nam Trung Quốc, Việt Nam, Xiêm La và Mã Lai Á, gửi kiến nghị đến các đồng
chí Việt Nam. Cái người có bí danh "Lin" này hẳn là mượn bí danh của
Nguyễn Ái Quốc thời kỳ hoạt động 1930, 1931, gửi báo cáo lên Quốc tế cộng sản.
Nói cách khác, đây chính là Hồ Tập
Chương, lấy "Lin" làm bí danh. Các bản báo cáo bằng tiếng Pháp chính
là kết quả nghiệm thu của Quốc tế
cộng sản trong việc hoán đổiHồ Tập Chương thành Nguyễn Ái Quốc
* Năm 1936 đến 1938, chỉ có 3 bài viết.
Năm 1936 không có bài viết nào. Năm 1937, bức thư gửi Marcel Gabriel tuyệt đối
không phải Nguyễn Ái Quốc. Trong mục "5 năm học tập cải tạo", tôi đã
phân tích kỹ, xin được lướt qua. Năm 1938 có 2 bức thư, một viết tại Mạc Tư Khoa, rất ngắn bằng tiếng Pháp,
nội dung báo cáo về thành quả nghiên cứu cá nhân. Chỉ có điều, bức thư này biểu
thị những nét rất khác nhau là, P.C.Lin và Nguyễn Ái Quốc cùng ký tên. Thời
gian vào ngày 6 tháng sáu lại càng phù hợp, trừ việc cùng với Nguyễn Ái Quốc bị
bắt ở Hương Cảng một ngày ra, lại còn khớp cả với thời gian P.C.Lin chuẩn bị rời
khỏi Mạc Tư Khoa, cũng là ngày
thành lập "Mặt trận Việt Minh, ngày viết thư gửi đồng bào toàn quốc mà
Nguyễn Ái Quốc ký tên. Có thể nói, ngày 6 tháng sáu là một ngày có quá nhiều sự
kiện đáng cho ta phải suy nghĩ. Bức thư thứ hai viết năm 1938 bằng chữ Hán vào
tháng mười hai, ký tên P.C.Lin tại Quảng Tây, Trung Quốc "Người Nhật Bản
muốn khai thác Trung Quốc như thế nào?" gửi đến Việt Nam, (đăng tại tạp
chí "Tiếng nói của chúng ta"), nội dung là một thiên bình luận dài
"Người Nhật Bản xâm lược Trung Quốc tàn bạo như thé nào?" và
"Tân tứ quân" của Đảng
Cộng sản Trung Quốc", "Bát lộ quân anh dũng chống Nhật". Vào lúc
ấy, P.C.Lin tự xưng là người Trung Quốc.
Năm 1939, có 11 bài viết đều ký tên
P.C.Lin. Trừ 3 bài bằng tiếng Pháp gửi Mạc
Tư Khoa, 8 bài còn lại đều bằng Trung văn theo hình thức "Thư gửi từ Trung
Quốc" đến Việt Nam đăng trên tạp chí "Tiếng nói của chúng ta" và
tập san tiếng Việt "Dân chúng". Bảy bài viết, trừ 2 bài tố cáo hành
vi xâm lược Trung Quốc tàn bạo của Nhật Bản, 5 bài còn lại thì, một là báo cáo
tình hình kháng Nhật của nhân dân Trung Quốc, một bài kiểm điểm về hoạt động
quân sự của Việt Nam hai năm gần đây, ba bài giới thiệu về Chủ nghĩa Trosky và
phái Troskism hoạt động tại Trung Quốc. P.C.Lin trong thời gian này, ngoài việc
tự xưng là người Trung Quốc ra, còn lại đều viết bằng tiếng Việt, vậy mà đột
nhiên lại biến thành người thông thạo tiếng Nhật. Tám bài trong trong "Thư
gửi từ Trung Quốc" và các bài viết trong năm 1940 đăng trên "Cứu vong
nhật báo" bao gồm 13 chuyên đề sẽ dược phân tích kỹ ở mục "Hồ Chí
Minh ở Trung Quốc".
* Năm 1940 có 11 bài, trong dó, 1 bài
gửi Quốc tế cộng sản Mạc Tư Khoa,
không ký tên, sử dụng lối văn tả rất đặc biệt. Nội dung báo cáo về tình hình Việt
Nam hiện tại như hoàn cảnh địa lý, tài nguyên, dân tộc, kinh tế, quốc phòng,
các đảng phái chính trị, trong đó không ít tư liệu được dẫn từ báo chí Nhật Bản.
Ngoài 11 bài chuyên đề dùng bút danh "Bình Xuyên" viết bằng Trung văn
đăng tải trên "Cứu vong nhật báo", thể hiện quan điểm về thời cuộc và
Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt thái độ phản đối kịch liệt đối với Phát
xít Nhật và đế quốc Pháp xâm lược. Phần lớn văn chương đều sử dụng thủ pháp cường
điệu đề cao mối quan hệ đồng minh Trung -Việt trong cuộc kháng chiến chống
Pháp.
* Năm 1941, các bài viết đều có những
nét đặc biệt. Đó là 2 bài thơ ngắn, một đề ngày 6 tháng sáu năm 1941, ký tên
Nguyễn Ái Quốc, dưới hình thức thư từ nước ngoài "gửi toàn thể đồng
bào". Tiếp đó là 9 bài bằng tiếng Việt đăng trên báo "Việt Nam độc lập",
ngoài ra, chưa thấy các báo
chí Việt Nam lúc ấy đăng các bài bằng tiếng Việt của ông.
* Năm 1942, các bài viết đều không ký
tên, hầu hết đều đăng tải trên "Việt Nam độc lập", trong đó 2 bài thơ
ngắn, 2 bài dưới dạng bút ký, 2 bài giải nghĩa về chiến tranh du kích. Một điều
đặc biệt chú ý là, danh xưng Hồ
Chí Minh bắt đầu được sử dụng từ thời kỳ này, và từ đó về sau, không dùng bí
danh nữa. Cũng trong năm này, Hồ Chí Minh bị Quốc dân đảng bắt giữ, trong tù,
ông đã viết 134 bài thơ chữ Hán lấy tên là "Nhật ký trong tù".
* Năm 1943, Hồ Chí Minh bị giam trong
ngục, trừ việc viết "Nhật ký trong tù", còn có bài thơ ngắn gửi bạn
bè, một bài giới thiệu về nước Syria làm thế nào để thoát khỏi bàn tay ma quỷ của
chủ nghĩa đế quốc, một bài
là "Máu và nước mắt trong giữ gìn tổ quốc độc lập" và bài "Đồng
chí, đồng bào Việt Nam hãy cố gắng". Các bài này đều đăng trên tờ "Đồng
minh báo" của "Việt Nam Cách mạng đồng minh hội" tại Liễu Châu,
Trung Quốc, bút danh Hồ Chí Minh.
* Năm 1944 có 2 bài được ghi chú là
Hán văn, bút danh Hồ Chí Minh đăng ở mục "chuyên đề" của "Đồng minh báo" Liễu Châu.
Ngoài ra còn có bài "Phương pháp chiến tranh du kích" lấy bút danh
"Việt Minh". Bài "Phương pháp chiến tranh du kích" này,
tương ứng vào thời kỳ năm 1939, Hồ
Chí Minh lúc ấy ở Hành Sơn, Hồ Nam, tham gia khóa huấn luyện cán bộ du kích, giải
nghĩa cải biên thành.
* Năm 1945, trước tháng tám, Việt Nam
gọi là "Cách mạng tháng Tám thành công", Việt Minh suy tôn Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch Chính phủ lâm thời. Ngày 2 tháng chín năm 1945, tại Ba Đình
Hà Nội, ông đọc "Tuyên ngôn độc lập", từ đó ba chữ "Hồ Chí
Minh" nổi tiếng trên toàn thế giới.
* Từ năm 1946 đến 1969, trong "Hồ
Chí Minh toàn tập" đã đưa vào hầu hết các loại hình tác phẩm của ông, gồm
thư tín, chuyên đề, nói chuyện, điện báo v.v... đều ký tên Hồ Chí Minh, từng
đăng tải trên các báo, tạp chí hoặc công bố trên Đài phát thanh rất rõ ràng.
Trong số này, tuy đôi lúc có chen vào một, hai bài thơ chữ Hán hoặc thư từ bằng
tiếng Pháp, tiếng Anh nhưng chủ yếu vẫn là các tư liệu tiếng Việt.
Tổng hợp các tác phẩm của Hồ Chí Minh
trong "Hồ Chí Minh toàn tập", có thể quy về một số đặc điểm sau:
1- Từ năm 1919 đến 1923, thời kỳ Nguyễn
Ái Quốc ở Pháp, các bài viết đều dùng tiếng Pháp.
2 - Từ
năm 1924 đến 1927, cho dù Nguyễn Ái Quốc đã đến Quảng Châu , chủ yếu vẫn sử dụng
tiếng Pháp để viết bài. Tuy nhiên, cũng có một bài viết bằng Trung văn, hiện
lưu giữ ở Viện bảo tàng Cách mạng Quảng Châu", có điều không chắc đấy là
bút tích của Nguyễn Ái Quốc. Càng kỳ lạ hơn lá, bài viết gửi về Việt Nam đăng
trên tờ báo "Thanh niên" hoặc cuốn "Đường kách mệnh", Nguyễn
Ái Quốc đều dùng tiếng Pháp chứ không dùng tiếng Việt.
3 -Từ năm 1929 đến 1931, những bài viết còn lại rất ít, hầu
hết đều bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Thời kỳ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ
Tập Chương) cùng ở Thượng Hải, Hương Cảng, Singapore, Xiêm La hoạt động, mà thời
gian này Nguyễn Ái Quốc bị bệnh phổi nghiêm trọng, nên hầu hết các báo cáo, thư
từ gửi Quốc tế cộng sản đều do Hồ Tập Chương viết.
4 - Từ năm 1932 đến năm 1934, không còn bất kỳ bài viết nào
lưu lại. Mùa thu năm 1932, báo chí cộng sản đã đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết vì bệnh
lao phổi. Tin này là chính xác, mà Hồ Tập Chương lúc ấy, cuộc sống vô cùng khó
khăn.
5 - Từ năm 1935 đến 1938, thời kỳ này Hồ Chí Minh ởMạc Tư
Khoa, hầu như không để lại bất cứ bài viết nào. Người lúc ấy mang bí danh P.
C.Lin có thể xác định được chính là Hồ
Tập Chương. Một số bút tích, thư tín, chứng tỏ lúc ấy Hồ Tập Chương đã biến đổi
thân phận, tiếp tục vai trò hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.
6 - Từ năm 1938 đến năm 1945, đột nhiên dùng Trung văn để
viết những lài trường thiên, chuyên đề, sáng tác thơ, viết thư pháp...càng cho
thấy P.C.Lin chính là Hồ Tập Chương, rất uyên bác văn hóa Hán, có khả năng phân
tích được tình hình quân đội Nhật qua các tư liệu báo chí.
Đại hội đại biểu Quốc tế cộng sản lần thứ VII
Ngày 25 tháng bảy năm 1935, Hội nghị
VII Quốc tế cộng sản khai mạc tại Mạc Tư Khoa, khai trừ Bí thư thứ nhất Ban chấp
hành Quốc tế cộng sản Lev Kamenev và cựu Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Quốc tế
cộng sản Grigori Zinoviev ra khỏi đảng, đồng thời tiến hành xét xử, cuối cùng cả
hai đều bị tử hình.
Mục tiêu hàng đầu của Hội nghị VII là
vạch ra sách lược mới cho phong trào cộng sản thế giới để đối phó mới những
nguy cơ của các thế lực mới đang trỗi dậy. Trước khi tiến hành hội nghị, tình
hình thế giới đối với Liên Xô vô cùng bất lợi. Quân phiệt Nhật Bản nêu cao
chính sách "diệt cộng" đã đem quân đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc,
với ý đồ thâm hiểm xâm lăng toàn bộ lục địa Trung Hoa, thực hiện cái gọi là
"Chính sách Đại Đông Á". Chính phủ Adolf Hitler ở Đức xưng bá chủ
châu Âu, lớn tiếng hô hào thành lập "Đế quốc thứ ba" chống lại chủ
nghĩa Marx- Engels. Điện Kremli đã nhìn thấy đảng Nazi của nước Đức phát xít mỗi
ngày một mạnh, cùng với quân đội Nhật Bản hiếu chiến, lúc nào cũng giương cao
ngọn cờ chống cộng. Liên Xô đang đứng trước nguy cơ đất nước bị xâm chiếm,
Stalin quyết định hủy bỏ sách lược của phái
cực tả đã được thông qua tại Hội nghị VI Quốc tế cộng sản năm 1928. Bí thư thứ
nhất Quốc tế cộng sản Grigori Dimitrov chủ trì hội nghị đề xuất cương lĩnh
"Thống nhất chiến tuyến" để các đại biểu thông qua. Quốc tế cộng sản
chuyến sang sách lược toàn thế giới phản đối chủ nghĩa phát xít, cùng với lực
lượng dân chủ, tổ chức thành liên minh thống nhất chống chủ nghĩa phát xít và
quân phiệt Nhật Bản.
Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai
cùng Hoàng Văn Nọn là 3 đại biểu chính thức của Đảng Cộng sản Đông Dương tham
gia Hội nghị VII Quốc tế cộng sản. Ban tổ chức chỉ đạo, mỗi đại biểu Việt Nam đều
được đọc tham luận. Nguyễn Thị Minh Khai phát biểu về "Người phụ nữ châu Á
bị chế dộ thực dân áp bức". Hoàng Văn Nọn nói về "Phong trào đấu
tranh của nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp", còn trưởng đoàn
Lê Hồng Phong có bài "Những thiếu sót của Đảng Cộng sản Đông Dương những
năm qua và nhiệm vụ cấp bách trước mắt". Sau khi Hội nghi bế mạc, Lê Hồng
Phong được bầu là Ủy viên thường vụ Ban chấp hành Quốc tế cộng sản.
Hồ Chí Minh lấy "P.C.Lin" hoặc
"Lý Nặc Phu" làm bí danh, lúc ấy là Bí thư Cục Viễn Đông, đến hội nghị với tư các
quan sát viên, không có quyền phát biểu, chỉ giữ vai trò im lặng, rất không phù
hợp với tác phong của một cán bộ từng đảm nhiệm chức vụ phát ngôn viên dày dạn
kinh nghiệm của Quốc tế cộng sản Đông Nam Á. Việc Lê Hồng Phong trúng cử vào
Ban chấp hành Quốc tế cộng sản, trở thành lãnh tụ mới của Đảng Cộng sản Đông
Dương, cùng với tiếng vang của những bản tham luận tại Hội nghi VII, chắc chắn
sẽ tác động đến tâm lý Hồ Chí
Minh, một người gần như bị gạt ra ngoài lề mọi sự kiện chính trị lúc ấy.
Hội nghi kết thúc không lâu, Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai làm lễ thành hôn tại Mạc Tư Khoa.
Từ nghị quyết Hội nghị VII, để hóa giải
nguy cơ trước mắt, Quốc tế cộng sản hiệu triệu giai cấp vô sản thế giới, chuyển
sang liên minh với các lực lượng dân chủ, hợp thành trận tuyến rộng lớn, chống
lại chủ nghĩa phát xít ngày càng bành trướng. Cử hành lễ cưới xong, Lê Hồng Phong vềThượng Hải trước, đến
năm 1936 thì triệu tập Hội nghị trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương truyền đạt những nhiệm vụ chủ yếu mà Hội nghị VII Quốc tế cộng
sản đã đề ra, đồng thời giải thích sự thay đổi chính sách của Mạc Tư Khoa.
Tôi đã nghiên cứu, thẩm định, Lê Hồng Phong trở vềThượng Hải
với một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là, truyền đạt cho Đảng Cộng sản Trung Quốc
như sau: "Đảng viên cộng sản Hồ Tập Chương, trong 2 năm đã ra sức học tập,
rèn luyện đạt được thành tịch tốt, sau này sẽ thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc,
vì hai đảng anh em ra sức phấn đấu, tuy nhiên, thân phận của Hồ Tập Chương phải
được tuyệt đối giữ bí mật".
Hồ Chí Minh, P.C.Lin, Lý nặc Phu, với
tư cách quan sát viên tham dự Hội
nghị VII Quốc tế cộng sản chỉ lẳng lặng ngồi nghe không nói một lời. Nếu đem đối
chiếu với Hội nghị V Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc ung dung lên diễn đàn,
tranh thủ tối đa hoàn cảnh để phát biểu, thì hai người khác nhau một trời một vực.
Nếu xem Hồ Chí Minh như là Nguyễn
Ái Quốc, vậy thì vì sao, trong hội nghị lại không được phát biểu, hơn thế nữa,
lại để cho người vợ yêu dấu của mình làNguyễn Thị Minh Khai công nhiên tổ chức hôn lễ với Lê Hồng Phong? Trường hợp này, chỉ có
một khả năng giải thích, người tham gia Hội nghị VII này, không phải là Nguyễn
Ái Quốc mà là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Tập Chương, đến từ Đài
Loan, là phái viên liên lạc của Quốc
tế cộng sản. Ông cũng là Hồ Chí
Minh, đã trải qua khóa học tập cải tạo của Quốc
tế cộng sản 5 năm ở Mạc Tư Khoa
Hồ Chí Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa
Hồ Chí Minh phải qua 5 năm học tập cải
tạo ở Mạc Tư Khoa, không phải vì
nguyện vọng cá nhân mà là bị cưỡng bách, không biết làm thế nào, đành phải chấp
nhận. Vào lúc Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn sắp trở về Việt Nam đã đến
từ biệt Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh
chính là giảng viên đã dạy họ ở Mạc
Tư Khoa, đã từng chỉnh sửa, bổ sung các bản tham luận của họ để đọc tại Hội nghịVII
Quốc tế cộng sản. Ông cũng sẽ là đại biểu được phái đến Việt Nam trong thời
gian tới. Vào lúc chia tay, Hồ
Chí Minh đã hướng dẫnHoàng Văn Nọn và Nguyễn Thị Minh Khai về cách thức liên lac với các đảng
phái trong và ngoài nước, đồng thời truyền đạt chỉ thị của Quốc tế cộng sản, giao cho Lê Hồng
Phong ba việc như sau:
1 - Chính phủ Pháp hiện nay do Mặt trận
Bình dân năm giữ, nhất định sẽ dẫn đến thay đổi cục diện chính trị ở Bán đảo
Đông Dương. Các Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đang ở nước ngoài
phải lập tức về nước ngay để chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng, chỉ
lưu lại một vài đồng chỉ để duy trì liên lạc.
2 - Các phần tử Troskism ở các nước và
Việt Nam, bản chất là phản động và phản bội, đảng của chúng ta phải kiên quyết
ly khai chúng, không được có bất cứ sự thỏa hiệp nào.
3 - Nhất định phải tập trung hình thành trận
tuyến chống chủ nghĩa phát xít và phản đối chiến tranh, chỉ có điều, trong khi
tổ chức liên minh này, không được quên lấy lợi ích của giai cấp cần lao làm nhiệm
vụ hàng đầu.
Vào lúc mọi người đã rời khỏi Mạc Tư Khoa, hiển nhiên là Hồ Chí Minh có cảm giác trống văng
nhưng không thể làm gì khác. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn vào năm 1935, ông
nói chuyện với nhà bào Liên Xô
Ilya Erenburg là, trước mắt chỉ có một hy vọng được trở về tổ quốc. Ngay sau Hội
nghị VII kết thúc, Hồ Chí Minh đã
đề nghị được tạm thời về nước, chỉ vì tình hình nội bộ Đông Nam Á lúc ấy rất phức tạp nên đã bị cự tuyệt.
Cho đến mùa hè năm 1936, ông lại đề nghi được qua Berlin và Pháp trở về Việt Nam, cuối
cùng do nội chiến Tây Ban Nha liên quan đến nước Pháp nên kế hoạch lại bị hủy bỏ.
Năm học 1937 - 1938, ngoài việc soạn thảo, tu sửa một số giáo trình, Hồ Chí Minh còn làm việc ở Cục Viễn Đông. Hoàn cảnh hiện tại của
ông khá là buồn thảm. Đối với phái hành động thiếu lý luận mà nói, qua thời
gian phiên dịch tác phẩm của các nhà cộng sản chủ nghĩa và thảo luận về hình
thái ý thức, nhất định là một sự thử thách gian nan. Tháng sáu năm 1938, Hội
nghi VII Quốc tế cộng sản đã qua được ba năm, Hồ
Chí Minh tuyệt vọng, viết thư gửi một cán bộ trong ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản như sau: "Tôi bị
bắt giữ đến nay đã 7 năm, tức là đã 8 năm tôi không được hoạt động. Tôi thỉnh cầu
được sự giúp đỡ để thoát khỏi tình thế đáng buồn này. Đưa xuống địa phương hay
giữ lại thì nên sử dụng khả năng chuyên môn của tôi, chỉ xin đừng để tôi xa rời
hoạt động quá lâu". Vì việc này nên Hồ
Chí Minh yêu cầu được gặp người phụ trách của Quốc
tế cộng sản, ông ta rất cần sự đồng tình của Vera Vasilieva. Cuối cùng nguyện vọng
rời Mạc Tư Khoa đã được chấp nhận.
Sau khi nhận được mật lệnh, ngày 6
tháng sáu, Hồ Chí Minh đáp xe lửa
về Trung Quốc với bí danh "Lin" là "học sinh đã hoàn thành khóa
học". Vì sao Hồ Chí Minh được
phóng thích sau nhiều năm bị quản chế ở Liên
Xô dưới danh nghĩa học tập cải tạo? Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nội bộ Mạc
Tư Khoa không muốn để ông ra đi. Thế nhưng, vào thời kỳ những năm 1930, hồ sơ
liên quan đến Hồ Chí Minh còn lại rất ít, cho nên, để biết được
nguyên nhân và động cơ thoát khỏi Mạc Tư Khoa của ông, ta chỉ có thể suy đoán.
Tuy vậy, không thể biết Quốc tế cộng sản đã giao cho Hồ Chí Minh nhiệm vụ gì? Chỉ thấy ông
ta hầu như đặt nhiều hy vọng vào Cộng sản Trung Quốc tích cực can thiệp đối với
nhà đương cục Mạc Tư Khoa. Hồ Chí Minh báo về với người phụ trách mới của Mạc
Tư Khoa ở Trung Quốc, tiếp đó là giúp đỡ ông thực hiện nhiệm vụ vận động cách mạng
ở Việt Nam.
William J. Duiker cho rằng, việc Hồ Chí Minh rời Mạc Tư Khoa năm 1938 là do Quốc tế cộng
sản cho phép, giao phó một mật lệnh, làm xong sẽ báo cáo giải trình. Vì sao
lãnh tụ cách mạng Việt Nam không trực tiếp trở về nước tham gia chỉ đạo phong
trào, mà lại trải qua ngàn dặm xa xôi đến tận căn cứ địa cách mạng Diên An,
Trung Quốc, sau khi bàn mưu tính kế với trùm đặc vụ Khang Sinh mới cùng Diệp Kiếm
Anh về làm việc ở Bát lộ quân Quảng Tây Trung
cộng? Tôi có nhận xét, William J.
Duiker giải thích: " Căn cứ vào khoảng thời gian từ mùa thu năm 1938 đến
tháng năm năm 1943, có thể phán đoán những hoạt động của Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, mà chủ yếu
là cung cấp tin tức về Mạc Tư
Khoa". Giải thích như thế xem ra có vẻ hợp tình hợp lý nhưng rất không
chính xác. Vì sao Hồ Chí Minh lại
phải đi theo Diệp Kiếm Anhmột chặng
đường dài đến làm việc ở Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây? Duyên cớ gì
trong thời gian 5 năm, ông chỉ hoạt động ở các tỉnh vùng biên giới Trung Quốc
như Quế, Kiềm, Điền cùng với lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc Chu
Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Khang Sinh, Lý Khắc Nông bàn mưu tính kế? Nội dung những
vấn đề cơ mật là gì? Tôi cho rằng thân phận đích thực của Hồ Chí Minh có liên
quan đến việc Quốc tế cộng sản
giao cho ông nhiệm vụ bí mật. Căn cứ vào những hồ sơ ghi chép về những hoạt động
của Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, tôi đã thấy xuất hiện một vài manh mối mới. Kết
hợp với những tài liệu lưu trữ trong gia tộc, tôi đem so sánh, đối chiếu, và,
phần nào đã phục hồi được sự thật lịch sử.
Màn hai
Hồ
Chí Minh ở Trung Quốc (1938 - 1945)
Ngàn dặm xa xôi đến Diên An
Đầu năm 1938, Hồ Chí Minh rời Mạc Tư Khoa bằng xe lửa xuyên qua vùng
lãnh nguyên phía nam nước Nga, lưu lạiAlma-Ata, thủ phủ của nước Cộng hòa
Kazakhstan, sau đó tiếp tục đến vùng biên giới Trung Quốc, nhập vào một đoàn
thương gia, qua Urumchi (Ô Lỗ Mộc Tề) rồi về Lan Châu. Tại Lan Châu, Hồ Chí
Minh gặp được người của Đảng Cộng
sản Trung Quốc giúp đỡ tiếp tục hành trình tới Tây An. Đến Tây An, ông lại được
thủ trưởng cơ quan Giải phóng quân nhân dân Tây An Ngũ Tu Quyền tiếp đón. Hồi
ký Ngũ Tu Quyền viết: "Các đồng chí lãnh đạo cao cấp phân công tôi tiếp
đón một nhân vật rất quan trọng. người châu Á, tuy không biết họ tên nhưng được
lệnh phải tiếp đãi chu đáo, sau đó bảo vệ cẩn thận để ông ta đến Diên An an
toàn". Tại Tây An, Hồ Chí Minh đợi hai ngày, sau đó nhập vào một đoàn xe
trâu và xe ngựa, đi lên phía bắc chừng hơn trăm dặm thì đến sơn khu Diên An.
Trên đường đi gặp khá nhiều quân đội Quốc dân đảng. Hồ Chí Minh cải trang
thành người đánh xe đi cùng
đoàn dân phu, vì thế, phần lớn hành trình đều phải đi bộ.
Cuối tháng mười, Hồ Chí Minh đến nhà
khách "Vườn Táo" do đặc vụ Khang
Sinh tiếp đón. Lúc ấy, Khang Sinh là Bộ trưởng Bộ Xã hội, phụ trách công
việc an toàn điều tra, Lý Khắc Nông là Phó bộ trưởng kiêm nhiệm thủ trưởng Cơ
quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây. Thật là, ở đời người ta gặp nhau khó lường.
Những tưởng vào khoảng năm 1934, tại Mạc
Tư Khoa, Khang Sinh đã đề xuất mức án xử tử Hồ Chí Minh, vậy mà ngày nay, tại
"Vườn Táo", ông ta lại trở thành khách quý của trùm đặc vụ. Căn cứ
vào những bằng chứng có được, Hồ Chí Minh và Khang Sinh bàn mưu với mật lệnh do
Quốc tế cộng sản giao phó là có liên quan đến, một là, quét sạch chủ nghĩa
Trosky và những phần tử theo chủ nghĩa Trosky, hai là, chấp hành tuyệt đối
không được để lộ bí mật cho người ngoài biết". Trong tập 3 "Hồ Chí
Minh toàn tập", có bức thư Hồ Chí Minh gửi "Tiếng nói của chúng
ta" ở Việt Nam (Ngã môn chi thanh), năm 1939, nội dung đề cập đối với chủ
nghĩa Trosky là phải phân định rạch ròi, có đầy đủ chứng cứ. Nhiệm vụ bí mật có
thể liên quan đến thân phận người Đài Loan của Hồ Chí Minh. Theo quan niệm người
đời "chết mà sống", "nghèo mà quý", vật đổi sao dời, họa
phúc sớm chiều, thì rất khó dự đoán.
Sau khi đến nhà khách "Vườn Táo" một tuần, Hồ Chí
Minh cải trang thành lính cần vụ của Diệp Kiếm Anh trên hành trình dặm trường
cát bụi đến Cơ quan Bát lộ quân
Quế Lâm, Quảng Tây. Đây là bước đi đầu tiên trong sự nghiệp vinh quang của Hồ
Chí Minh sau này. Thời kỳ Hồ Chí Minh đến
Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây không có cách nào tra cứu chính xác. Tài
liệu Trung cộng thì ghi là cuối năm 1938. Căn cứ vào giáo sư Hoàng Tranh trong
bài phỏng vấn Hà Khải Quân ngày 23 tháng chín năm 1982 như sau: "Vào khoảng
cuối năm 1938 đến đầu năm 1939. lúc ấy, tôi và Hồ Chí Minh, bí danh là Hồ Quang, cùng làm việc tại
Tổng bộ Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây , hết giờ lại về ở trong một căn phòng lớn
phía tây đường Mạc Thôn. Nghe giọng nói, tôi biết ông là người Quảng Đông.
Hồ Chí Minh phụ trách công việc vệ sinh kiêm viết báo tân
văn, vì thế cũng là một vị lãnh đạo cơ quan. Ông còn phụ trác biên tập tờ nội
san "Sinh hoạt tảo báo" (Sinh hoạt buổi sáng). Tất nhiên chúng tôi
hoàn toàn không biết thân phận của ông, sau này mới phát hiện ra, Hồ Quang có rất
nhiều nét đặc biệt. Có một lần, tôi phê bình ông ấy một vài vụ việc nho nhỏ, đến
ngày thứ hai, Lý Khắc Nông phụ trách "Bát biện" (Quế Lâm Bát lộ quân
biện sự xứ), tìm gặp hỏi tôi phê bình Hồ Quang về việc gì? Sao lại dám tự tiện
phê bình như vậy? Đến lúc ấy tôi mới biết thân phận Hồ Quang không đơn giản.
Ông là người rất có khí thế".
Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm
Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm đóng tại
nhà số 96, đường Trung Sơn Bắc, thành phố Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, cũng gọi là
Cơ quan Tập đoàn quân 18 Quốc dân cách mạng quân, là một cơ quan bí mật của Cục
Phương Nam Trung cộng. Hạ tuần tháng mười một năm 1938, căn cứ vào chỉ thị của
Trung ương, sau khi Chu Ân Lai cùng Quốc dân đảng Quế Lâm hiệp thương, Lý Khắc
Nông lấy tư cách Bí thư trưởng Cục Phương Nam kiêm chủ nhiệm Cơ quan Bát lộ
quân, toàn quyền phụ trách Quế Lâm. Từ tháng mười hai năm 1938 đến tháng năm
năm 1939, Chu Ân Lai đã ba lần đến Quế Lâm tực tiếp chỉ đạo, giao nhiệm vụ cho
Cơ quan Bát lộ quân và lãnh đạo Cục Phương Nam, tích cực tuyên truyền chủ
trương kháng Nhật, đoàn kết các nhân sĩ yêu nước kháng nhật, hợp thành mặt trận
thống nhất, triển khai các hình thức vận động cứu quốc.
Ngày 20 tháng giêng năm 1941, xảy ra sự
biến "Miền nam An Huy" (Hoãn Nam sự biến), ảnh hưởng đến vận mệnh Cơ
quan Bát lộ quân Quế Lâm, nên buộc phải triệt hồi rút về Diên An. Thời gian
này, Diệp Kiếm Anh, Diệp Đĩnh, Quách Mạt Nhược, Hạ Diễn cũng đã rút về đây tiếp
tục hoạt động.
Từ cuổi tháng mười hai năm 1938, sau
khi Chu Ân Lai đến Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm chỉ đạo công tác, Hồ Chí Minh
cũng được bố trí là Phó chủ nhiệm "Cứu vong thất" kiêm Ủy viên phụ
trách vệ sinh và Ủy viên biên tập báo tường. Lúc ấy, trừ chủ nhiệm Lý Khắc Nông
ra, rất ít người biết Hồ Chí Minh là
Ủy viên Đông Phương bộ, Quốc tế cộng
sản và thân phận thực của ông. Hồ
Chí Minh là bạn rất thân thiết của Chu Ân Lai, tích cực vận động Diệp Kiếm Anh phụ trách quân sự và Lý
Khắc Nông phụ trách đặc vụ, nên đã thành lập được "Đảng bộ Hải ngoại"
của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động rất có hiệu quả.
Ban huấn luyện cán bộ chiến tranh du
kích Hành Sơn, Hồ Nam
Tháng hai năm 1939, người chỉ huy quân sự của Đảng Cộng sản
Trung Quốc là Diệp Kiếm Anh chuyển từ Quế Lâm về phía đông bắc khoảng
hai trăm dặm, đến phía nam dãy núi Hành Sơn, thành lập "Trung tâm huấn luyện
cán bộ du kích". Kế hoạch này hình thành từ 25 tháng mười một năm 1938,
khi tại Hành Sơn, triệu tập Hội nghị quân sự, đề xuất "hai giai đoạn kháng
chiến". Hội nghị nhận thấy, chiến tranh du kích có ưu thế hơn chiến tranh
chính quy nên đã quyết định thành lập. Giai đoạn thứ nhất của Ban huấn luyện
cán bộ du kích bắt đầu từ ngày 15 tháng hai năm 1939. Giai đoạn thứ hai từ 20
tháng sáu đến 20 tháng chín năm 1939.
Hồ Chí Minh sau 6 tháng rời Quế Lâm, lấy
bí danh Hồ Quang, tham gia giai đoạn hai lớp huấn luyện cán bộ du kích. Chương
trình huấn luyện đã cung cấp cho Hồ Chí Minh rất nhiều phương tiện và kiến thức
bổ ích. Sau này, khi rời khỏi sơn khu Tĩnh Tây, Hồ Chí Minh đã sử dụng những kiến
thức và kinh nghiệm quý đó, về căn cứ địa Việt Bắc, mở lớp huấn luyện chiến tranh
du kích và lập ra một chi đội giải phóng quân vũ trang đầu tiên.
Một mặt tham gia huấn luyện "Du
kích ban", mặt khác, Hồ Chí Minh còn đảm nhiệm công việc điện báo viên điện
đài, nghe các thông tin từ đài phát thanh nước ngoài, đặt trụ sở trong một
trang viên phía tây thành Nhạc Dương. Hồi ký của Ngô Khê Như, một người từng là
giáo viên giảng dạy tại "Du kích ban", viết về Hồ Chí Minh như sau:
"Đồng chí Hồ Chí Minh tham gia khóa học Huấn luyện cán bộ du kích vài
tháng, cũng kiêm nhiệm luôn công việc phiên dịch, chức danh là Trưởng ban thông
tin cơ quan Quế Lâm, thường gọi là Ngoại công". Hồi ký của Lý Bội Quần
cũng viết: "Hồ Chí Minh nói chuyện bằng tiếng Quảng Đông rất giỏi nhưng tiếng
phổ thông thì không được lưu loát. Khi ấy, các đồng chí được Đảng Cộng sản cử đến
Ban huấn luyện cán bộ du kích ở Nhạc Dương rất ít người biết tiếng Quảng Đông,
nhưng Hồ Chí Minh chỉ thích nói chuyện với chúng tôi bằng tiếng phổ
thông".
(Tác giả nhận định, Lý Bội Quần
là liên lạc viên giao thông Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, sau khi khóa "Huấn
luyện cán bộ du kích Hành Sơn" kết thúc, Hồ Chí Minh được đưa đến Long
Châu Quảng Tây để liên lạc với người của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những người chạp,
không hoạt bát khó có thể làm liên lạc. Lý Bội Quần nói "Hồ Chí Minh nói
tiếng Quảng Đông rất giỏi" chính là nói tiếng Khách, bởi Lý Bội Quần cũng
là người Khách nên rất thông thạo thứ ngôn ngữ này. Vào năm 1930, Chu Ân Lai đã
biết rõ Hồ Tập Chương là người Khách đến từ Đài Loan, cho nên, năm 1931, Hồ Tập
Chương trốn khỏi Quảng Châu, một người Khách khác là Đào Chú đã cử một nữ đảng
viên Khách Gia đi cùng để bảo vệ. Năm 1932, vào lúc Hồ Tập Chương đang lẩn trốn
ở Long Châu, lại cùng một người Khách Gia khác là Đặng Tiểu Bình bàn mưu tính kế
cho cuộc khởi nghĩa Long Châu. Năm 1938, lúc từ phía nam Diên An xuống Quế Lâm,
Hồ Chí Minh được bố trí làm lính cần vụ cho một người Khách Gia khác là Diệp Kiếm Anh. Hàng loạt những sự việc
trùng hợp nhau hoàn toàn không đơn giản, bởi lẽ đều là có sự sắp xếp từ trước).
Trong một cuốn sách nhỏ nhan đề "Thông tin về đợt hai
Ban huấn luyện cán bộ du kích quân huấn Bộ Tổng tham mưu, Ủy viên quân sự hội",
có đăng tải công khai hồ sơ Hồ Chí Minh như sau:
Họ tên: Hồ Quang
Chức vụ: Thiếu tá, nhân viên Đài tân văn.
Tuổi: 38
Quê quán: Quảng Đông
Đơn vị: Tập đoàn quân 18.
Từng làm công tác: Giáo viên trung học, hiệu trưởng trường
ngoại ngữ.
Đảng
bộ Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương
Tháng 9 năm 1939, sau khi lớp "Huấn
luyện cán bộ du kích" kết thúc, Hồ Chí Minh lại trở về Cơ quan Bát lộ quân
Quế Lâm. Tháng mười hai năm 1939, ông được điều dến Cơ quan Bát lộ quân Quý
Dương giúp việc cho đồng chí cấp dưỡng. Mọi người đều hoan hỷ đón tiếp Hồ Chí
Minh. Ông cũng thường dạy mọi người tiếng Nga và tiếng Anh, vào lúc có tiền thì
bỏ ra một ít mua rau quả mời mọi người cùng ăn.
Đầu năm 1940, Hồ Chí Minh ở thôn Hồng
Nham thuộc Cơ quan Bát lộ quân Trùng Khánh, đã có vài lần cùng Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh bí mật bàn bạc. Tháng hai năm 1940, Hồ
Chí Minh đến Côn Minh, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã liên lạc
được với Đảng bộ Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông
Dương dưới danh nghĩa Việt Kiều ở Côn Minh đã sớm xây dựng tổ chức, triển khai
hoạt động. Thời kỳ năm 1939, tại Côn Minh đã thành lập được bộ phận hải ngoại của
Đảng Cộng sản Đông Dương, những người lãnh đạo gồm Phùng Chí Kiên, Vũ Anh (bí
danh Trịnh Đông Hải), Hoàng Văn Hoan (bí danh Lý Quang Hoa). Tháng năm năm
1940, Hồ Chí Minh cùng nhóm Phùng Chí Kiên tại Vân Nam (tỉnh Điền) đi xe lửa về
Côn Minh. Lúc này, Phạm Văn Đồng (bí danh Lâm Bá Kiệt), Võ Nguyên Giáp (bí danh
Dương Hoài Nam) đã từ Việt Nam đến Côn Minh. Sau khi đến trụ sở Đảng bộ Hải ngoại,
nhóm này được gặp Hồ Chí Minh tại công viên Thúy Hồ. Lúc ấy họ hoàn toàn không
biết Hồ Chí Minh đã đề nghị Đảng Cộng sản Đông Dương thu nhập Đảng bộ Đảng Cộng
sản Đông Dương hải ngoại, đồng thời cử họ đi Diên An học tập. Đầu tháng sáu,
Cao Hồng Lĩnh dẫn đường đưa Hoàng Văn Hoan và Võ Nguyên Giáp đến Cơ quan Bát lộ
quân Qúy Dương chờ để đi Diên An học tại "Đại học kháng Nhật Tây Nam"
do trùm đặc vụ Khang Sinh chủ trì.
Ngày 27 tháng sáu năm 1940, quân đội
Hitler dánh chiếm thủ đô Paris, nước Pháp đầu hàng. Ngày 22 tháng chín năm
1940, đại tướng Decoux vừa nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, đã thỏa thuận ngầm
cho quân đội Nhật vượt qua ải Nam Quan tiến xuống Hải Phòng. Hồ Chí Minh suy
nghĩ, tình hình này sẽ đẩy Việt Nam và Đông Dương đến một cục diện mới, liền
triệu tập Đảng bộ Hải ngoại, đề xuất chuyển địa bàn hoạt động về vùng biên giới
Quảng Tây-Việt Nam, sau đó về nước trực tiếp chỉ đạo đấu tranh vũ trang. Mọi
người đều đồng ý kế hoach này. Sau đó, Hồ Chí Minh từ Côn Minh đi Trùng Khánh gặp
Chu Ân Lai, một tháng sau lại trở về Côn Minh.
Thời gian này, Đảng bộ Hải ngoại
nhận được thư của Hồ Học Lãm do Văn phòng ủy viên quân sự Quế Lâm của tướng Lý
Tế Thâm chuyển cho. Trong thư, Hồ Học Lãm nói, Tư lệnh trưởng Đệ tứ chiến khu
Liễu Châu có một sĩ quan người Việt là Trương Bội Công, nhận được chỉ lệnh quan
trọng của Quốc dân đảng là quân đội Trung Quốc sắp tiến vào Việt Nam. Để đối
phó với sự kiện này, Trương Bội Công đã tiến hành chiêu mộ nhân sĩ Việt Nam, tổ
chức tại biên giới một đội công tác. Hồ Học Lãm cũng đề nghị các đồng chí ở Đảng
bộ Hải ngoại từ Côn Minh sang Quảng Tây để tiện khống chế Trương Bội Công. Hồ
Chí Minh nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi, lập tức yêu cầu Phùng Chí Kiên, Vũ
Anh, Hoàng Văn Hoan phải nhanh chóng sang Quảng Tây, đồng thời thông báo đến
Quý Dương cho Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tạm thời không đi Diên An mà trở lại
Quảng Tây. Việc tếp theo là chuyển trụ sở Đảng bộ Hải ngoại về đóng tại Cơ quan
Bát lộ quân Quế Lâm, coi như trung tâm chỉ huy tác chiến, thành lập căn cứ địa
cách mạng, triển khai phương thức đấu tranh mới.
Tháng mười năm 1940, Hồ Chí Minh trở lại
Quế Lâm. Không lâu sau, Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng,
Võ Nguyên Giáp cũng từ chố Trương Bội Công ở Liễu Châu về Quế Lâm. Có Hồ Chí
Minh tại Cơ quan Bát lộ quân ngầm yểm trợ, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng làm liên lạc,
đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương Hải ngoại đã tổ chức được lực lượng. Trong khi
ấy, ở Quế lâm, Hồ Chí Minh thành lập cơ quan "Việt Nam độc lập đồng minh hội"
do Hồ Học Lãm làm Chủ nhiệm, Phạm Văn Đồng làm Phó chủ nhiệm. Hồ Chí Minh lại bố
trí Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng gặp gỡ Lý Tế Thâm, đồng thời mở tiệc chiêu
đãi thư ký của ông ta để cho "Việt Nam độc lập đồng minh hội" được
thành lập từ ngày 8 tháng mười hai năm 1940. Từ nay, những người cộng sản Việt
Nam tại Quế Lâm đã có một tổ chức hoạt động công khai, hợp pháp.
Như vậy, mọi hoạt động của "Việt
Nam độc lập đồng minh hội", thực tế là do Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải
ngoại chỉ đạo, đồng thời, Hồ Chí Minh còn thông qua quan hệ với Cơ quan Bát lộ
quân Quế Lâm để Hồ Học Lãm, Phạm Văn Đồng tiếp xúc với giới ký giả tân văn,
nhân sĩ văn hóa, với mục đích quảng bá rộng rãi cho cách mạng Việt Nam. Tiếp
sau đó lại thành lập "Trung Việt văn hóa công tác đồng chí hội' nhằm triển
khai các hoạt động của "Việt Nam độc lập đồng minh", kiên trì dường lối
đấu tranh giải phóng dân tộc.
Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh
Sau khi thành lập được "Việt Nam
độc lập đồng minh hội" , dưới sự yểm trợ của Hồ Chí MInh, Đảng bộ Hải ngoại
Đảng Cộng sản Việt Nam lại tổ chức thành công "Trung Việt văn hóa công tác
đồng chí hội'" để có chỗ dựa, đã tranh thủ lợi dụng hoàn cảnh, tạo điều kiện
tối đa cho các đảng viên Đảng bộ Hải ngoại hoạt động công khai.
Thời kỳ này, những người cộng sản Việt
Nam lợi dựng sự kiện Pháp Nhật xung đột ở Lạng Sơn để tổ chức cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn. Sau đó không lâu, Phạm
Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan chuyển về huyện Tĩnh Tây, thành lập
"Việt Nam dân tộc giải phóng ủy viên hội" vào tháng bảy năm 1940 tại
Liễu Châu với lời phát biểu "Tuyên ngôn thành lập" kêu gọi các dân tộc
Việt Nam vùng lên đấu tranh thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, phát xít Nhật.
Có được nguồn kinh phí do Trương Bội Công xin được từ Quốc dân đảng, "Việt
Nam dân tộc giải phóng ủy viên hội" mở lớp huấn luyện cán bộ thanh niên Việt
Nam, làm nòng cốt cho công cuộc giải phóng dân tộc. Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh
đem "Việt Nam dân tộc giải phóng ủy viên hội" phân chia làm hai tổ.
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan ở lại Tĩnh Tây, Phùng Chí Kiên,
Vũ Anh, Lê Quảng Ba về Cao Bằng làm cơ sở nòng cốt công tác. Sau khi thành lập
cơ quan tại thôn Bắc Pha thuộc huyện Hà Quảng, Cao Bằng, Hồ Chí Minh lần này cải
tên là Thu Ông, từ Tĩnh Tây về Bắc Pha. Bắc Pha là một thôn nhỏ hẻo lánh vùng
núi cao, cư dân toàn là người Nùng. Đây là lần đầu tiên Hồ Chí Minh đến Việt
Nam trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Nhóm Phạm Văn Đồng lưu lại Tĩnh Tây vẫn sử dụng
mối quan hệ giữa Trương Bội Công và Quốc dân đảng làm chỗ dựa, đến ngày 12
tháng tư năm 1941 thì chính thức thành lập "Việt Nam dân tộc Giải phóng đồng
minh hội".
Đến lúc này, những tổ chức thành
viên do Đảng Cộng sản Việt Nam lập ra và chỉ đạo gồm có Đảng Dân chủ Việt Nam
và "Việt Nam độc lập đồng minh hội". "Việt Nam dân tộc Giải
phóng đồng minh hội" thành lập không lâu, Hồ Chí Minh lại thành lập Cơ
quan Trung ương chỉ huy bí mật của Đảng cộng sản Đông Dương. Ngày 10 tháng năm
năm 1941, tại Bắc Pha, triệu tập Hội nghị VIII Đảng Cộng sản Đông Dương do Hồ
Chí Minh chủ trì. Tham gia Hội nghị gồm có Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh (Đặng
Xuân Khu), Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Hoan, Hoàng Quốc Việt. Hội nghị quyết định
thành lập và phát triển căn cứ địa du kích, thành lập "Mặt trận Việt Minh",
lấy "Việt Nam độc lập đồng minh" làm trung tâm cùng 16 tổ chức
"Cứu quốc hội". Ngày 19 tháng năm năm 1941, thành lập "Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh", gọi tắt là "Việt Minh". Hội nghị
suy tôn Hồ Chí Minh là Tổng bí thư Đảng, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
tuy nhiên Hồ Chí Minh kiên quyết từ chối, đề nghị chuyển chức vụ này cho Trường
Chinh, người đã có nhiều năm hoạt động bí mật trong nước. Cương lĩnh của Việt
Minh quy định, mục tiêu phấn đấu trước mắt của nhân dân Việt Nam là, sau khi lật
đổ phát xít Pháp, Nhật, sẽ thành lạp Chính phủ cách mạng của nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, đồng thời sử dụng cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ.
Bị bắt ở Quảng Tây và tập thơ
"Nhật ký trong tù"
Sau khi kết thúc Hội nghị VIII Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và thành lập "Mặt trận Việt Nam độc
lập đồng minh", trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thời gian này, Hồ
Chí Minh thường qua lại giữa Bắc Pha và Tĩnh Tây. Ngày 6 tháng sáu năm 1941, Hồ
Chí Minh viết bức thư nhan đề "Thư hiệu triệu gửi dồng bào Việt Nam",
ký tên Nguyễn Ái Quốc, nguyên văn bằng chữ Hán, qua phương thức "thừ từ nước
ngoài gửi về" kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên, thành lập "Hội cứu
quốc", đánh đổ đế quốc Nhật, Pháp xâm lược. Bức thư hiệu triệu này rất
nhanh chóng lan truyền đến các đia phương, cổ vũ mãnh liệt tinh thần yêu nước của
nhân dân Việt Nam, làm cho không khí cách mạng lan rộng khắp các tỉnh, các giới
nhân sĩ tham gia các "Hội cứu quốc" mỗi ngày một đông.
(Tác giả nhận định, căn cứ vào lời
giáo sư Tưởng Vĩnh Kính, 16 tổ chức "Hội cứu quốc" dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương bao gồm các đoàn thể: công nhân, nông dân, quân nhân, văn
hóa, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng, phụ lão, phật giáo, thiên chúa giáo, thương
nhân v.v... Mặt trận Việt Minh có sức lan tỏa rộng khắp, ảnh hưởng ngày càng lớn
đến quần chúng nhân dân, nguyên nhân cũng bởi hình tượng Nguyễn Ái Quốc bỗng
nhiên sống lại trong lòng nhân dân Việt Nam sau 10 năm vắng bóng vì cái tin ông đã chết do bệnh lao phổi
vào mùa thu năm 1932. Lần đầu tiên cái tên Nguyễn Ái Quốc xuất hiện công khai
trước báo chí quốc tế.
Hạ tuần tháng tám năm 1942, được Lê Quảng
Ba dẫn đường, Hồ Chí Minh lại mọt lần nữa rời Bắc Pha sang Trung Quốc. Mục đích
sang Trung Quốc của ông lần này là để di Trùng Khánh gặp Chu Ân Lai báo cáo
tình hình Việt Nam hiên tại và trao đổi về tình hình thế giới.
(Tác giả nhận định, Hồ Chí Minh sau
khi bị Quốc dân đảng bắt giữ, trong tập "Nhật ký trong tù" của ông có
bài "Tưởng công huấn từ" (Lời dạy của Tưởng công), đã bị giải thích
thành "Lần này đến Trung Quốc để gặp Tưởng Giới Thạch" là sai lầm. Từ
những năm 1929, Chu Ân Lai đã sớm biết Hồ Tập Chương là người Đài Loan, cũng biết
Nguyễn Ái Quốc đã chết năm 1932, và đến năm 1935, Quốc tế cộng sản dùng Hồ Tập Chương thay thế thân phận Nguyễn
Ái Quốc. Năm 1938, Hồ Tập Chương đến "Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm", họ
Chu đã dành cho Hồ Quang sự giúp đỡ đặc biệt. Từ năm 1940 đến 1941, Hồ Quang và
Chu Ân Lai nhiều lần gặp nhau tại Trùng Khánh bàn việc cơ mật. Được các Cơ quan
Bát lộ quân Quế Lâm, Quý Châu, Trùng Khánh hết sức yểm trợ, Hồ Quang đã có nhứng
sáng tạo mới làm thay đổi sự nghiệp cách mạng. Về điểm này, chắc Hồ Tập
Chương ghi nhớ rõ từng chi
tiết trong lòng, cho nên đã nhiều lần xưng hô với Chu Ân Lai là "Ân
ca". Tình cảm bạn bè giữa hai người còn hơn cả tình đồng chí).
Trước khi đi, Hồ Chí Minh đóng dấu tên mình, ở giữa là ba
chữ Hồ Chí Minh, hai bên phải trái viết các chữ "Tân văn ký giả" và
"Việt Nam Hoa kiều". Danh xưng Hồ Chí Minh này được bắt đầu dùng từ
ngày 25 tháng tám khi ông đến Ba Mông Thành, huyện Tĩnh Tây, ở lại nhà người
anh em kết nghĩa Từ Vĩ, vui vẻ đón tết rằm tháng bảy. Sáng sớm ngày 27 tháng
tám, Hồ Chí Minh được một người dân biên giới là Dương Đào dẫn di Trùng Khánh.
Vào lúc hai người đang trên đường đến Túc Vinh, huyện Đức Bảo thì bị đám hương
cảnh thuộc Sở Cảnh sát bắt giữ. Khi hương cảnh Dương Phúc Mậu tra vấn Hồ Chí
Minh, đối chiếu với lai lịch của ông, người này tỏ vẻ hoài nghi, phát hiện
ngoài những giấy tờ chứng minh là hội viên "Phân hội quốc tế phản xâm lược"
còn mang theo thẻ phóng viên "Trung Quốc thanh niên tân văn ký giả",
thông tín viên đặc biệt "Quốc tế tân văn xã" cùng với giấy thông hành
quân đội do Tư lệnh trưởng Đệ tứ chiến khu cấp. Những giấy tờ này đều được cấp
vào năm 1940, đã hết hạn sử dụng, chứng tỏ lại lịch Hồ Chí Minh rất phức tạp,
có khả năng là gián điệp nên bắt lại, giải đến trụ sở hương, giao cho điều tra
viên Mã Hiển Vinh, sau đó, ông được chuyển đến cơ quan quân sự tối cao Quảng
Tây thẩm vấn. Từ ngày 27 tháng tám bị bắt ở Túc Vinh, Hồ Chí Minh bị giả qua
Tĩnh Tây, Nam Ninh, Liễu Châu, Quế Lâmv.v... tất cả 13 huyện, hương, trấn, tạm
giam ở 18 nhà ngục. Tính ra, Hồ Chí Minh bị giam trong ngục 14 tháng, trong tù,
ông dùng Hán văn viết tập thơ "Nhật ký trong tù" gồm 133 bài. Giáo sư
Hoàng Tranh nhận xét: "Nhật ký trong tù" gồm thơ thất luật (thất ngôn
bát cú), thất tuyệt (thất ngôn tứ tuyệt), ngũ luật (ngũ ngôn) và tạp văn, nội
dung phần lớn đều để thư giãn đầu óc hoặc phản ảnh hiện thực, lúc hứng lên thì
ngâm ngợi. Thơ ông thường xuất khẩu mà thành, không có sự gia công chỉnh sửa
nhưng rõ ràng, dễ hiểu. 134 bài thơ (tính gộp cả bài "Mới ra tù tập leo
núi") trong tù, không đơn giản chỉ là thơ, mà là một bộ sử thi tự họa chân
dung của một nhà cách mạng. Mỗi bài thơ trên hành trình đều phản ánh một cách
sinh động tư thế ung dung tự tại, một trí tuệ lớn của nhà cách mạng lão luyện,
kiên nghị - hình tượng Hồ Chí
Minh".
Sau khi Hồ Chí Minh bị bắt, Việt cộng Trung ương vô cùng
hoang mang, đã nhiều lần điện báo hỏi chính phủ Quốc dân đảng, lại thông qua
các hãng thông tấn REUTERS Anh Quốc, AFP của Pháp và TASS của Liên Xô loan
báo tin tức, tạo dư luận. Họ dùng trăm phương ngàn kế gây áp lực với nhà đương
cục Trung Quốc, yêu cầu phóng thích Hồ Chí Minh, nhưng chính phủ Quốc dân đảng đều không chấp nhận. Lúc
ấy, Chu Ân Lai ở Trùng Khánh biết tin, phải nhờ đến Phùng Ngọc Tường và Lý Tông
Nhân, còn Tưởng Giới Thạch thì gây áp lực với các địa phương, đến cuối tháng
giêng năm 1943, ra lệnh cho Đệ tứ chiến khu phóng thích Hồ Chí Minh, giao cho
Ban chính trị thẩm tra, xử lý. Hồ Chí Minh từ nhà tù Quế Lâm đến trại tạm giam
quân đội Liễu Châu. "Nhật ký trong tù" có 2 bài ghi lại sự việc xảy
ra lúc ấy. Bài 108, nhan đề"Đến Ban chính trị Đệ tứ chiến khu":
Quảng Tây giải khắp mười ba huyện,
Mười tám nhà lao đã ở qua,
Phạm tội gì đây ? Ta thử hỏi,
Tội trung với nước, với dân à ?
Và bài: "Nhà giam của Cục chính
trị":
Ba thước chiều dài hai thước rộng,
Bốn người chen chúc ở bên trong.
Duỗi chân một tí cũng không thể,
Nhà hẹp mà người lại quá đông.
Ngày 10 tháng chín năm 1943, Hồ Chí Minh từ nhà tạm giam
quân đội dược trả tự do.
Trở lại Bắc Pha, tháng tám khải ca
Ra khỏi ngục không lâu, Hồ Chí Minh được Tư lệnh trưởng Đệ
tứ chiến khu Trương Phát Khuê ngưỡng mộ đề nghị tham gia hoạt động "Việt
Nam cách mạng đồng minh hội" và cử làm Phó chủ tịch (Chủ tịch là Nguyễn Hải
Thần). Tổ chức có sự hiệp trợ của nhân sĩ các đảng phái Việt Nam tại Đệ tứ chiến
khu, được thành lập từ tháng mười năm 1942. Tháng ba năm 1944, "Việt Nam
cách mạng đồng minh hội" khai mạc Hội nghị đại biểu "Hải ngoại cách mạng
đoàn thể", bầu ta ban chấp hành. Tháng sáu năm 1944, Hoàng Văn Hoan sang
Liễu Châu hội kiến với Hồ Chí Minh báo cáo về tình hình cách mạng Việt Nam và
những hoạt động của Việt Minh. Hồ Chí Minh nhân thời cơ khi Hội nghị đại biểu
"Hải ngoại cách mạng đoàn thể" kết thúc, nói với Trương Phát Khuê ý định
trở lại Việt Nam, đồng thời đệ trình ông ta một bản dự thảo tổng quát kế hoạch
công tác là phát triển "Việt Nam cách mạng đồng minh hội", giành độc
lạp hoàn toàn cho Việt Nam. Sau khi Trương Phát Khuê đồng ý, Hồ Chí Minh bèn tổ
chức "Chiến địa công tác tổng đội", chọn được 18 thanh niên ưu tú rời
Liễu Châu vào ngày 9 tháng tám năm 1944 về Bắc Pha.
Ngày 27 tháng chín năm 1940, phát xít
Nhật đánh chiếm Lạng Sơn, quân Pháp thua trận rút lui qua Bắc Sơn về Thái
Nguyên. Phùng Chí Kiên, Chu Văn Tấn, Lương Văn Chi lấy danh nghĩa Đảng Cộng sản Đông Dương, lãnh đạo
nhân dân Bắc Sơn khởi nghĩa, đánh
bại quân pháp, thu vũ khí, xây dựng căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn - Vũ Nhai. Năm
1943, tại căn cứ Bắc Sơn -Vũ Nhai, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn
Hoan, Vũ Anh lãnh đạo xây dựng Cao Bằng thành căn vứ địa cách mạng trung ương.
Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao cấp của Đảng
Cộng sản Đông Dương nghiên cứu,
khảo sát tình thế cách mạng, quyết định thành lập "Đội tuyên truyền Việt
Nam giải phóng quân" vào ngày 22 tháng mười hai năm 1944 do Võ Nguyên Giáp
làm chỉ huy trưởng, Hoàng Văn Thái làm chính trị viên, đặt nền móng cho lực lượng
quân đội Cộng sản Việt Nam sau này.
Ngày 4 tháng sáu năm 1945 "Việt
Nam cứu quốc quân" và "Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân" hợp
nhất thành "Việt Nam giải phóng quân". Cũng trong tháng tám, chớp được
thời cơ quân đội Nhật đầu hàng Đồng Minh, cao trào cách mạng bùng phát, Võ
Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thái chỉ huy đội "Việt Nam giải phóng
quân" tiến về thủ đô Hà Nội, không mất một viên đạn, một người lính.
Trung tuần tháng tám năm 1945, Hồ Chí
Minh sau khi được tin Nhật Bản đã chấp nhận "Tuyên bố Potsdam", từ
ngày 13 đến 15 tháng tám năm 1945, tại Tuyên Quang, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập hội nghị chuẩn bị công tác
vũ trang khởi nghĩa.
Ngày 15 tháng tám, Nhật Bản đầu hàng.
Ngày 16 tháng tám, Tổng bộ Việt Minh tổ chức "Hội nghị toàn quốc"
thông qua nghị quyết, tập trung toàn bộ lực lượng, phát động tổng khởi nghĩa
toàn quốc. Sau khi giành được hoàn toàn độc lập, sẽ thành lập nhà nước "Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa", thực hiện cải cách dân chủ với 10 chính sách lớn,
suy tôn Hồ Chí Minh làm chủ tịch, quyết định trước khi quân đội Đồng Minh tiến
nhập lãnh thổ Việt Nam, phải giành được chính quyền từ tay quân đội Nhật. Ngày 16 tháng tám, "Việt Nam giải
phóng quân" tiến dánh Thái
Nguyên, mở đầu cho cuộc tổng khởi nghĩa. Ngày 19 tháng tám năm 1945, Hà Nội khởi
nghĩa giành chính quyền. Ngày 23 tháng tám, tại Trung bộ, Huế khởi nghĩa. Ngày
25 tháng tám, Sài Gòn khởi nghĩa. Từ 16 đến 28 tháng tám, khởi nghĩa đã nổ ra ở
sáu mươi tỉnh trong cả nước, từ Bắc đến Nam đều thành lập chính quyền mới.
Ngày 27 tháng tám, thành lập Chính phủ
Lâm thời "Việt Nam, dân chủ cộng hòa", đề cử Hồ Chí Minh là chủ tịch.
Ngày 30 tháng tám, tại triều đình Huế, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Cách mạng
tháng Tám toàn quốc thắng lợi, ngày 2 tháng chín năm 1945, Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ Lâm thời, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, đọc bản "Tuyên ngôn độc
lập", tuyên bố chấm dứt ách thống trị tám mươi năm của thực dân Pháp và chế
độ chuyên chế nghìn năm phong kiến, đồng thời tuyên bố nước Việt Nam độc lập và
thành lập nhà nước "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa".
Con người thật của Hồ Chí Minh
Trong Thiên I "Hài kịch tráo rồng đổi phượng" tôi
đã dành khá nhiều trang phản biện, chứng minh Nguyễn Ái Quốc đã chết vào mùa
thu năm 1932 do bệnh lao phổi. Ở Thiên II "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp
người", tôi cũng chỉ ra từ năm 1929 đến 1933, có hai vị Hồ Chí Minh đồng
thời xuất hiện, một người là Nguyễn Ái Quốc, còn người kia là Hồ Tập Chương. Và
Thiên IV, Màn một, "Hồ Chí Minh ở Liên Xô", tôi cũng đã làm rõ, Hồ Tập
Chương tiếp tục thân phận của Nguyễn Ái Quốc theo phương pháp "dời hoa tiếp
cây" là bởi kế hoạch của Quốc
tế cộng sản, đồng thời cũng là âm mưu của lãnh đạo Trung cộng, Việt cộng và bản thân Hồ
Chí Minh phối hợp với nhau. Trong thiên này, tôi viết, Hồ Chí Minh từ năm 1938
đến 1945, những năm tháng ở Trung Quốc đã từng bước chứng minh thân phận của
ông, chính là Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan.
Vì sao vào tháng mười năm 1938, Hồ Chí
Minh đi hàng ngàn dặm đường xa xôi để đến căn cứ địa Diên An mà không trở về Việt
Nam? Tại nhà khách "Vườn Táo" Diên An, Hồ Chí Minh đã mật đàm những
gì với trùm đặc vụ Khang
Sinh? Vì sao lại vội vàng theo Diệp Kiếm Anh về "Cơ quan Bát lộ quân Quế
Lâm"? Vì sao đến Quế Lâm lại đột nhiên mất tích nửa tháng? Vậy trong nửa
tháng ấy Hồ Chí Minh ở đâu? Trên đường đi Quế Lâm là biên giới Việt Trung, vậy
vì sao không trực tiếp về Việt Nam mà lại theo dự "Lớp huấn luyện cán bộ
du kích Hành Sơn, Hồ Nam"? Vì sao phải nhiều lần thông qua liên lạc Trung
cộng mới gặp mặt phía Việt cộng? Càng kỳ lạ hơn nữa là, vào những năm 1938,
1939, phần lớn các bài viết của Hồ Chí Minh đều bằng Hán văn, điều mà trước đây
hầu như chưa từng có. Những chuyện này khiến người ta không khỏi nghi ngờ là
trong đó còn che giấu những chuyện bí mật chăng?
Thực ra, thời kỳ từ năm 1938 đến 1945, Hồ Chí Minh ở Trung
Quốc, lãnh đạo cao cấp Trung cộng đã biết rõ về lai lịch của ông, nhưng vì lợi
ích tối cao của Đảng Cộng sản, ngoài việc giúp đỡ Hồ Chí Minh tạo ra một nước
Việt Nam cộng sản độc lập, Trung cộng luôn che giấu thân phận Hồ Chí Minh nhằm
mạo dụng thân phận Nguyễn Ái Quốc. Vì thế, những hồ sơ, tài liệu có liên quan đến
lai lịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ này đều không hợp tình hợp lý, không phản
ánh dúng diện mạo lịch sử, cho dù chúng đã được các học giả nổi tiếng viết
thành truyện ký, tiểu sử, tuy vậy, tất cả đều là những lầm lẫn lớn, hoặc vô tình, hoặc
cố ý, biến Hồ Tập Chương thành Nguyễn Ái Quốc, tạo nên một huyền thoại Hồ Chí
Minh lừa dối người đời.
Hồ Chí Minh chấp hành "nhiệm vụ bí mật"
Mùa thu năm 1938, vào thời điểm Hồ Chí
Minh rời khỏiMạc Tư Khoa, Liên Xô và chính phủ Quốc dân đảng lại tái lập đồng minh. Từ
tháng Tám năm 1937, hai bên đã lần lượt gặp nhau tại Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh ký hiệp định
không xâm phạm lẫn nhau, đồng thời xúc tiến hợp tác hai đảng Quốc Cộng lần thứ
hai đề chống lại quân đội Nhật xâm nhập Trung Quốc.
Từ năm 1939 đến 1944, Hồ Chí Minh hoạt
động ở vùng tây nam Trung Quốc, rõ ràng là thực hiện nhiệm vụ Quốc tế cộng sản
giao phó khuếch trương thanh thế hai đảng Trung -Việt, thống nhất chiến tuyến
chống phát xít Nhật. Lúc này, Liên Xô phải đối mặt với sự uy hiếp của quân đội
Nhật, ngoài việc viện trợ cho chính phủ Tưởng Giới Thạch 300 đến 450 triệu rúp
để thiết lập mặt trận chống phát xít, còn lại là chuyển giao vũ khí, khí tài
quân sự. Đúng vào thời điểm và hoàn cảnh này, Hồ Chí Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa
đến Trung Quốc thực hiện nhiệm vụ của Quốc tế cộng sản.
Vậy thì Quốc tế cộng sản đã giao cho Hồ
Chí Minh nhiệm vụ bí mật gì? Không có bất cứ một nguồn thông tin công khai nào
cho biết một cách đầy đủ nhiệm vụ ấy. Sau này, theo báo cáo của Hồ Chí Minh gửi
các "Ủy viên Trung ương hội" và Quốc tế cộng sản, chẳng ngại "Chỉ
thị 7 điểm" hay "8 điểm", đều không triển khai việc thanh trừng
các phần tử Troskism, không khai triển trận tuyến liên hợp chống phái Trosky giữa Trung cộng và Việt cộng. Vậy mà, một
năm sau, Hồ Chí Minh dựa vào trí nhớ, gửi Quốc
tế cộng sản một bản báo cáo bằng Hán văn: "Khi tôi ở Diên An làm kẻ lữ
hành, những ghi chép kẹp giữa bản chỉ lệnh về công tác chính trị của Quốc tế cộng
sản bị mất, cho nên, bắt buộc phải căn cứ vào trí nhớ để báo cáo công
tác".
Có phải Hồ Chí Minh bị mất tài liệu thật hay ông ta chỉ mượn
cớ để tránh né? Tôi thật sự nghi ngờ, chỉ lệnh công tác có hay không có một điều
"Yêu cầu đồng chí Hồ Chí Minh đến Quân khu Quảng Châu của Nhật Bản"? Mật lệnh
này liên quan đến thân phận chân chính Hồ Chí Minh và những hoạt động của Hồ
Chí Minh sau khi ông mất tích tại miền nam nửa tháng.
Sự mất tích nửa tháng kỳ lạ của Hồ Chí Minh
Các tài liệu trong và ngoài nước đều ghi chép rõ, tháng mười
năm 1938, Hồ Chí Minh đến Diên An, sau khi nghỉ ngơi 2 tuần lại cùng quân đội
Diệp Kiếm Anh hỏa tốc đến Cơ quan Bát lộ quân Trung công ở Quế Lâm Quảng Tây
vào cuối tháng mười hai cùng năm. Giả thiết trung tuần tháng mười hoặc cuối
tháng mười, Hồ Chí Minh xuất phát từ Diên An, hành trình được dự tính là nửa
tháng, thế nhưng mãi đến cuối tháng mười hai mới đến Cơ quan Bát lộ quân Trung
cộng Quế Lâm. Như vậy, từ đầu tháng mười một đến cuối tháng mười hai, ít ra thời
gian cũng gần nửa tháng, Hồ Chí Minh mất tích một cách thần bí.
Thời gian nửa tháng này, Hồ Chí Minh dến nơi nào, làm những
việc gì, đều chưa thấy được ghi chép trong bất cứ tài liệu nào. Liệu có phải Hồ
Chí Minh thực hiện chỉ lệnh thần bí của Quốc
tế cộng sản? Từ Mạc Tư Khoa, Hồ Chí Minh đi một chặng đường dài vất vả đến Diên
An gặp trùm đặc vụ trùm đặc vụ Khang Sinh bàn mưu tính kế gì? Vội vàng theo Diệp
Kiếm Anh đến Cơ quan Bát lộ quân
Quế Lâm Quảng Tây gặp người chủ trì cơ quan đặc vụ Lý Khắc Nông bàn những chuyện
gì? Những cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh với Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Lý Khắc
Nông mật bàn những vấn đề gì? Và, trong nửa tháng mất tích Hồ Chí Minh ở đâu?
"Đài Loan nhật nhật tân báo"
Từ tháng mười một đến tháng mười hai năm 1938, Hồ Chí Minh
đột nhiên mất tích nửa tháng, trong nửa tháng này, thật kỳ diệu, tôi tìm được
trong "Đài Loan nhật nhật tân báo". Liên kết "Đài Loan Nhật nhật
tân báo" với ngày tháng Hồ Chí Minh mất tích, tôi đã tìm được câu trả lời
rõ ràng. "Đài Loan nhật nhật tân báo" số ra ngày 12 tháng 11 năm 1938
có bài viết: "Thông dịch viên quân đội Nhật là Hồ Tập Chương, người gốc
Đài Loan, đã trốn khỏi nhà ngục Nam Thạch Đầu, Hà Nam (Quảng Châu). Sau khi tạm
trú tại bản doanh quân đội Nhật Ōta,
ông được tuyển vào làm thông dịch cho quan chỉ huy Nhật Bản Quân khu Quảng Đông
Tiểu Lạp Nguyên Thái Úy(4). (Tác giả nhận định: thông dịch tức là
phiên dịch).
Nhận định hoạt động trong nửa tháng mất tích của Hồ Chí
Minh, có liên quan đến việc Hồ Tập
Chương làm thông dịch cho quân đội Nhật ở Quảng Châu hoàn toàn không phải là võ
đoán hoặc tùy ý bịa đặt. Trong tay tôi có những chứng cứ tương đối sát thực để
khẳng định Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương. Từ việc Hồ Chí Minh tại Liên Xô bị cưỡng
chế học tập cải tạo 5 năm, vì sao đến mùa thu năm 1938, vào lúc quân đội Nhật
chiếm đóng Quảng Châu mới đột nhiên để Hồ Chí Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa? Sau
khi vượt ngàn dặm xa xôi trở về Trung Quốc gặp trùm đặc vụ Khang Sinh, Diệp Kiếm Anh, Lý Khắc
Nông, Chu Ân Lai hội đàm mật, Hồ Chí Minh lại đến Cơ quan Bát lộ quân Trung cộng
Quế Lâm. Đặc biệt lúc ấy, trên dọc các tuyến đường Quế Lâm, Liễu Châu Quảng
Tây, quân đôi các nước Trung, Nhật, Pháp, Việt đang tranh chấp nhau. Quân cảnh,
đặc vụ, gián điệp đủ loại thường xuyên bắt giữ, tra hỏi những đối tượng khả
nghi. Trong khi ấy, một người không thuộc dường đi lối lại như Hồ Chí Minh làm
sao dám công nhiên đi Quế Lâm? Chuyện này chỉ có một cách giải thích hợp lý là,
Hồ Chí Minh thực hiện "nhiệm vụ bí mật" của Quốc tế cộng sản. Nhiệm vụ
này phải tuyệt đối giữ kín. Một khi bí mật bị bại lộ, thân phận thực của Hồ Chí
Minh cũng bại lộ theo. Vì thế, Quốc tế cộng sản, Trung cộng và Việt cộng luôn
tìm cách giấu nhẹm bí mật này mà cho đến nay vẫn còn là một nghi án nằm trong
bóng tối.
Vậy nhiệm vụ bí mật mà Hồ Chí Minh phải thực hiện là gì? Và
Quốc tế cộng sản đã giao cho Hồ Chí Minh bao nhiêu nhiệm vụ bí mật?
Từ các chứng cứ ta có thể xác định theo hướng sau: Được
nhân viên đặc tình giúp đỡ, Hồ Chí Minh thâm nhập vào Quân khu Quảng Châu của
quân đội Nhật, tìm hiểu những hoạt động của chúng để báo cáo cho Quốc tế cộng sản.
Về sự kiện này, giáo sư William
J. Duiker, trong "Truyện Hồ Chí Minh" đã viết: "Hồ Chí Minh báo
cáo về Mạc Tư Khoa nhưng hoạt động của mình tại Trung Quốc, đó là nhiệm vụ
chính". Quốc tế cộng sản vì sao lại giao nhiệm vụ này cho Hồ Chí Minh? Căn
cứ vào tình hình lúc ấy mà phân tích, kết hợp với bản tin trên "Đài Loan nhật nhật tân
báo", có thể suy đoán như sau:
1 - Tìm hiểu những hoạt động của quân đội Nhật làm tài liệu
tham khảo cho Quốc tế cộng sản và Đảng Cộng sản Liên Xô. Như bài viết của Hồ
Chí Minh trên tờ "Cứu vong nhật báo" Quảng Tây ngày 18 tháng mười hai
năm 1940: "Việt Nam phục quốc quân hoàn thị mại quốc quân", có thể chứng
minh, sau năm 1931, Trần Văn An, từng là Bộ trưởng ngoại giao Chính phủ Mãn
Châu, sau năm 1938 Quảng Châu thất thủ, ông ta quay về vùng biên giới Quảng
Đông - Việt Nam hoạt động. Cuối tháng chín năm ấy, Nhật Bản xâm chiếm Việt Nam,
Nguyễn Cường Để, Trần Văn An theo sau quân Nhật về hoạt động tại vùng Lạng
Sơn-Cao Bằng. Trước mắt, quân đội Nhật còn bị Anh, Mỹ, Nga ngăn trở, chưa dám
xâm phạm Việt Nam nhưng vẫn nhòm ngó một cách thèm khát nguồn tài nguyên phong
phú trên lãnh thổ của họ, nên đã tìm cách chiêu mộ Việt gian, mục đích nhiễu loạn
dân tâm, mượn cớ đưa quân vào Việt Nam. Việc này, lẽ nào không phải do Hồ Chí
Minh thâm nhập vào Quân khu Quảng Châu thu thập thông tin tình báo? (Xem thêm
bài trong "Cứu vong nhật báo", chuyên đề 11 thiên).
2 - Hồ Chí Minh có đủ điều kiện, năng lực chọn một phụ nữ
tuyệt đẹp để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt. Căn cứ vào "Đài Loan nhật nhật
tân báo", Hồ Tập Chương tuyển chọn những thanh niên ưu tú Đài Loan đến
quân đội Nhật Bản để huấn luyện gián điệp, sau đó phái đến các vùng hậu địch
Trung Quốc để thu lượm thông tin tình báo. Hồ Tập Chương vốn sinh ra ở quận
Miêu Lật, châu Tân Trúc, đã tốt nghiệp Khoa Hóa học, Đại học Công nghiệp Đài Bắc,
thầy hướng dẫn là tiên sinh Tatara.
Chỉ huy tối cao quân đội Nhật tại Quân khu Quảng Đông là Tiểu Lạp Nguyên Thái
Úy (小笠原太尉), những năm trước
đã từng chỉ huy quân đội Nhật ở Đài Loan, với Tatara (Đa Điền La) là chỗ quen
biết. Tôi dẫn ra hai sự kiên trên để chứng minh, Hồ Chí Minh thực hiện mật lệnh
không phải do hai người này tuyển chọn. Khả năng tiếng Nhật của Hồ Chí Minh đã
được trang bị từ trước. Ông hiểu rất rõ tình hình Nhật bản, phân tích thông tin
có cơ sở khoa học, lại ở ngay Bộ chỉ huy Quân khu Quảng Châu, đồng thời được cơ quan đặc
vụ Trung cộng yểm hộ nên mọi công việc tiến hành khá thuận lợi. Như vậy mới có
thể giải thích, vì sao Quốc tế cộng sản chuẩn y cho Hồ Chí Minh rời khỏi Mạc Tư
Khoa, cấp thời cùng Diệp Kiếm Anh đến Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm cùng Khang
Sinh, Diệp Kiếm Anh, Chu Ân Lai, Lý Khắc Nông mật đàm. Đây chính là nguyên nhân
khi Hồ Chí Minh đến cơ quan đặc vụ của Lý Khắc nông thì đột nhiên mất tích nửa
tháng, tạo nên những nghi vấn khó giải thích.
Quy nạp từ "Đài Loan nhật nhật tân báo", đặc phái
viên Quảng Châu Tấn Trung ngày 12, 18, 21 tháng mười một và ngày 7 tháng mười
hai năm 1938 tại "Đài Loan nhật nhật tân báo", có những điểm chủ yếu
liên quan đến Hồ Tập Chương như sau:
1 - Hồ Tập Chương tuyển chọn các thanh niên ưu tú từ Đài Bắc,
Tân Trúc, Đài Trung, Đài Nam, Cao Hùng đến học tại "Trung tâm huấn luyện
gián điệp Nhật Bản". Sau khi mãn khóa, vào ngày 8 tháng... năm... được cử
đến các vùng hậu địch của Trung Quốc hoạt động tình báo. Hồ Tập Chương vốn là
người trang Đồng la, quận Miêu Lật, châu Tân Trúc, Đài Loan, tuổi 38, tốt nghiệp
Khoa Hóa học ứng dụng, Đại học Công nghiệp Đài Bắc. Bài đăng kèm một tấm ảnh Hồ
Tập Chương rất mờ.
2 - Vào năm Thiên Hòa thứ năm (1930), Hồ Tập Chương bất chấp
nguy hiểm tính mệnh, từ biệt vợ con đến Quảng Đông thực hiện lý tưởng cúa mình.
Ông từng mở xưởng sản xuất hương chống muỗi, hương sợi và nấu rượu, cũng từng
cư trú ở khu Nam Đường đối ngạn với Quảng Châu làm kỹ sư khai thác, phân tích
và giám định quặng của công ty khai thác quặng Nam Phương thực nghiệp.
3 - Sự kiện "Song thất" bùng nổ, Hồ Tập Chương bị
quân đội Quốc dân đảng bắt với tội danh Hán gian, ông nhận là người Trung Quốc
nên được thả, sau đó có người mật báo, ông là người Nhật nên lại bị bắt tống
giam vào nhà lao Nam Thạch Đầu, Hà Nam. Lúc ấy, quân đội Nhật bất ngờ đột kích
vào vùng tây nam duyên hải, chiếm đóng Quảng Châu, quân đội Trung Quốc thất bại
thảm hại, Hồ Tập Chương thừa cơ trốn khỏi nhà giam về khu Nam Đường. Nhà giam
Nam Thạch Đầu nhốt hai nghìn tù nhân, phần lớn là những kẻ bị tình nghi gián điệp
Nhật, trước khi quân đội Nhật đột kích dã bị thảm sát.
4 - Khi Hồ Tập Chương thoát khỏi ngục về khu Nam Đường, lại
bị quân đội Nhật của Ota tuần tra phát hiện. Ông ta nói rõ về thân phận mình,
liền được đưa đến Bộ chỉ huy tối cao Quân khu Quảng Đông của tướng Tiểu Lạp
Nguyên Thái Úy làm thông dịch viên. Tiểu Lạp Nguyên Thái Úy từng đóng quân ở
Đài Bắc, sau sự biến "Song thất" về Nhật, ít lâu sau gia nhập bộ đội
Kawaguchi, được phái sang Quảng Châu. Hồ Tập Chương: "Tôi có một người thầy
giảng dạy ở Đại học Công nghiệp Đài Bắc là ngài Ota. Tôi rời quê hương đã 4, 5
năm, từng bị giam giữ trong nhà tù hơn một năm, có thời kỳ làm việc khai mỏ quặng
ở vùng núi Lưỡng Quảng, hiện tại cuộc sống rất là khó khăn". Phái viên Tân
Trung theo dõi quá trình hoạt động của Hồ Tập Chương, đặc biệt nhấn mạnh:
"Trước mắt Hồ Tập Chương sống trong quân đội. Ông ta chỉ có một mình, nên
trọng dụng, sẽ rất được việc".
Sau khi tin tức trên báo chí Đài Loan truyền đến, Đài Loan
tổ chức đoàn Ủy vấn đến Quảng Châu thăm Hồ Tập Chương. Người anh thứ tư của Hồ
Tập Chương là Hồ Tập Phỉ đã viết thư đặc biệt cảm ơn "Đài Loan nhật nhật
tân báo". "Đài Loan nhật nhật tân báo năm Chiêu Hòa thứ mười ba
(1938), tháng mười một và tháng mười hai có đăng tải 4 bài về Hồ Tập Chương. Dưới
đây là ảnh chụp từ tờ báo đã được cắt ra.
Nhà giam Nam Thạch Đầu Hà Nam
"Đài Loan nhật nhật tân báo" số ra các ngày từ 19
tháng mười một đến ngày 7 tháng mười hai năm 1938 đã đăng tải các bài có liên
quan đến Hồ Tập Chương ở Quảng
Châu từ tháng mười một đến tháng mười hai năm 1938, bị mất tích ở Quế Lâm nửa
tháng. Tại thời gian trên, địa điểm trên có mối liên hệ nhân quả với nhau, phù
hợp một cách bất bình thường. Hơn nữa, lại có "Đài Loan nhật nhật tân
báo" với những chứng cứ trực tiếp để khẳng định Hồ Tập Chương và Hồ Chí
Minh chỉ là một người. Trong đó, chứng cứ quan trọng nhất chính là sự kiện Hồ Tập
Chương bị bắt giữ tại nhà
giam tại nhà lao Nam Thạch Đầu, Hà Nam, và sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt giam ở nhà ngục Quảng Châu. Hai sự kiện này
thực chất chỉ là một.
"Đài Loan nhật nhật tân báo" đưa tin Hồ Tập
Chương bị bắt giam tại nhà ngục Nam Thạch Đầu, Hà Nam, vậy rốt cuộc, dịa danh
Hà Nam là ở đâu? Căn cứ vào "Lịch sử đảng bộ Đảng Cộng sản thành phố Quảng
Châu", thì Hà Nam chính là bờ phía nam sông Châu, nhà giam Nam Thạch Đầu nằm
trên đường phố Nam Thạch Đầu, thành phố Quảng Châu. Nhà giam Nam Thạch Đầu được
thành lập vào thời kỳ phái phản động Quốc dân đảng thống trị. Đây là Nhà giam lớn
duy nhất Quảng Châu, còn gọi là "Trại trừng giới". Ngày 15 tháng tư
năm 1927, sau cuộc dảo chính phản cách mạng, phái phản động Quốc dân đảng đã bắt
một số lớn phần tử cộng sản và dân chúng đem về giam giữ tại đây, trong đó có
những nhân vật nổi tiếng của Đảng Cộng sản như Lưu Nhĩ Tung, Thẩm Tĩnh Trai, Tống
Thời Luân, Tiêu Sở Nữ, Hùng Hùng, Lý Sâm, Đặng Bồi v. v...
Nói rằng, "khoảng thời gian từ tháng mười một đến
tháng mười hai, Hồ Chí Minh bí mật đến Quảng Châu, trà trộn vào quân đội Nhật",
tuy nhiên đó lại là mưu kế đã được bàn bạc kỹ giữa Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo
Đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ là vì Hồ Tập Chương bị giam giữ tại nhà ngục Nam
Thạch Đầu, Hà Nam, rốt cuộc sự thực sờ sờ trước mắt, không thể bác bỏ.
Tại Thiên III "Ve sầu thoát xác,
thật giả kiếp người", tôi dã dẫn ra một đoạn "Hồi ký Trịnh Siêu
Lân": "Mùa hè năm 1931, Phó Đại Khánh ở nhà giam Quảng Châu gặp Hồ
Chí Minh, Hồ Chí Minh nhờ Phó Đại Khánh chuyển lời đề nghị Đảng Cộng sản Trung
Quốc tìm cách giải cứu". (Xem thêm: "Lịch sử và hồi ức - Ghi chép cuối
đời của Trịnh Siêu Lân", quyển 2 "Truyện Phó Đại Khánh" trang
506, hoặc tham khảo "Hồi ức Trịnh Siêu Lân", trích yếu như phụ lục
2). Mùa hè năm 1931, Phó Đại Khánh bị giam ở nhà lao Nam Thạch Đầu, Hà Nam có gặp
Hồ Chí Minh, tự nghĩ là, đây không thể nào là Nguyễn Ái Quốc, Thời gian ấy,
Nguyễn Ái Quốc đang bị giam tại nhà tù Victorria Hương Cảng, không thể đồng thời
lại bị giam ở nhà ngục Nam Thạch Đầu. Vì thế vị "Hồ Chí Minh" bị giam
ở đây nhất dịnh phải là Hồ Tập Chương. Cả Trịnh Siêu Lân và Phó Đại Khánh đều
là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc thuộc phái Troskism. Thời kỳ đầu kháng
chiến chống Nhật, Phó Đại Khánh bị hiến binh Nhật sát hại, Trịnh Siêu Lân bị
giam trong ngục, hưởng thọ
98 tuổi.
Trước sau năm 1930, Hồ Tập Chương nhận
nhiệm vụ tại "Liên minh mậu dịch Thái Bình Dương", là liên lạc viên của
Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản, do đó đã sớm có mối quan hệ mật thiết với các đảng
viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, quen biết cả Trịnh Siêu Lân và Phó Đại Khánh. Hai người này nhất định
nhận ra Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương, chỉ có cái tên khác nhau mà thôi.
Trong bài "Mối tình sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm
Y Lan", Lương Ích Tân có viết một đoạn "Ẩn trốn tại Quảng Châu, tránh
bị truy bắt" như sau:
"Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân độiQuốc dân đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang
Tây Tô, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng
sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. Hồ Chí Minh lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây,
trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, Hồ Chí Minh bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn
nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh
ủy Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ Hồ Chí Minh để bảo vệ an toàn cho ông ta". Tiếp
đến mục "Lâm Y Lan lấy tư cách là vợ" đã chăm sóc Hồ Chí Minhtrong
sinh hoạt thường ngày vô cùng tận tình, chu đáo làm cho ông đặc
biệt cảm kích, đã có lúc muốn thổ lộ tình cảm, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi
nên trong lòng vẫn trù trừ.Lâm Y Lan thấy Hồ Chí Minh nói với mình những lời chân thành,
thâm tâm đã có phần ưng ý, nhưng vì là phận nữ nhi, không tiện nói ra. Không lâu sau, do bị một đồng chí phản
bội, Hồ Chí Minh bị bắt. Lúc chia
tay, Hồ Chí Minh ôm lấy Lâm Y Lan, dùng khăn tay lau nước mắt
cho nàng : “ Hãy cứng rắn lên, đừng để kẻ thù
cười chúng ta mềm yếu”, nói rồi lấy quyển nhật ký đưa cho Lâm Y Lan : “ Tâm sự của tôi đều ở trong này, sẽ
cùng đi với em”. Tiếp đó là
"Trong hoạn nạn mới thấy lòng thành", một lần nữa tác giả kể lại:
"Ba ngày sau khi Hồ Chí Minh được cứu thoát, Lâm Y Lan nhìn đăm đăm vào khuôn mặt hốc hác của
ông, hỏi : “Chí Minh, sao không đợimuội đến
đón?”. Theo lời Lương Ích Tân tường thuật lại, ta sẽ thấy rất rõ, đây là những
ghi chép về Hồ Chí Minh thời kỳ đầu những năm 1930, chính xác là bị Quốc dân đảng
Quảng Châu bắt giữ, mà không phải là Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Hương Cảng bắt
giữ. (Xem thêm Thiên V "Khúc ca buồn về tình yêu và hôn nhân".
Tại "Đài Loan Quốc hoa
thư tịch", năm 1946, Ngô Trọc Lưu xuất bản cuốn "Hồ Chí Minh" bằng
tiếng Nhật, sau này, khi dịch sang Trung văn, lấy tên là "Đứa con côi châu
Á". Tại Thiên 3 gồm các chương "Xuân lành", "Bị giam",
"Thoát ngục", tác giả có chèn lẫn vào một đoạn sử liệu về tình yêu giữa
Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan khi ông ta bí mật đến Quảng Châu. Đọc kỹ những tư liệu
này cùng những tư liệu ghi chép về Hồ Tập Chương người Đài Loan, độc giả sẽ thấy
ngay đó là Hồ Chí Minh ở Việt Nam (Xem bài báo "Hồ Chí Minh của Ngô Trọc
Lưu Đài Loan").
Theo "Đài Loan nhật nhật
tân báo", từ năm 1938 và "Hồ Chí Minh" của Ngô Trọc Lưu tại Đài
Loan năm 1946, đều có ghi chép sự kiện Hồ Tập Chương bị bắt giữ ở Quảng Châu.
Trong bài "Mối tình sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan" (Hồi ký
Trịnh Siêu Lân) viết cũng có sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu. Những tư
liệu này đều chứng minh Hồ Tập Chương tức là Hồ Chí Minh, cũng chứng thực về bí
mật của dòng họ Hồ Miêu Lật, Đài Loan mấy đời truyền khẩu cho nhau, nhất định
không phải là ngụy tạo cố sự.
Năm 1938, người em út của Hồ Tập
Chương là Hồ Tập Dưỡng đã từ Đài Loan đến Quảng Châu gặp anh. Lúc ấy, Hồ Tập Dưỡng,
cũng tốt nghiệp hạng ưu Đại học Sư phạm Đài Bắc, bị quân đội Nhật trưng dụng
đưa đến Quân hạm hải quân Hương Cảng làm thông dịch. Tình cờ đọc "Đài Loan nhật nhật
tân báo", biết tin về Hồ Tập Chương đã chín năm bặt vô âm tín, vì vậy Hồ Tập
Dưỡng đã đến Quảng Châu gặp anh vào khoảng trung tuần tháng mười hai, báo tin về
người con trai là Hồ Thự Quang. Năm 1939, Hồ Chí Minh lấy bí danh là Hồ Quang
có lẽ là do nhớ đến tình cha con. Đây là lời Hồ Tập Dưỡng sau khi trở về Đài
Loan đã thông báo cho gia đình:
"Tôi phải trải qua vô
cùng khó khăn gian khổ, thậm chí còn xuống cả thuyền hải tặc mới gặp được Hồ Tập
Chương". Câu đầu tiên khi gặp tôi Hồ Tập Chương hỏi: "Tại sao chú tìm
được đến đây? Nguy hiểm lắm!". Sau khi hai anh em nói chuyện với nhau về
tình hình gia đình, Hồ Tập Chương bảo: "Tôi hiện đang làm công tác đặc biệt,
có thể nguy hiểm đến tính mạng bất cứ lúc nào". Rồi anh ấy dặn tôi chuyển
lời đến gia đình: "Không được đến đây tìm tôi nữa, sắp tới tôi sẽ đi Vân
Nam sang công tác ở Việt Nam, nếu không thành công sẽ không về nhà".
"Đài Loan nhật nhật tân
báo" và "Những tư liệu về Nam Nhạc du kích ban"
Có một chứng cứ quan trong nữa
để chứng minh Hồ Tập Chương chính là Hồ Chí Minh. "Đài Loan nhật nhật tân
báo" đưa tin: "Hồ Tập Chương là người trang Đồng La, quận Miêu Lật,
Đài Loan. tuổi 38". Cách đây không đến nửa năm, Ban huấn luyện cán bộ du
kích Nam Nhạc, Hồ Nam có in cuốn sách nhỏ nhan đề "Thông tin về đồng
môn", ghi danh Hồ Chí Minh, 38 tuổi là hoàn toàn phù hợp. Nếu so với Nguyễn
Ái Quốc 49 tuổi thì khoảng cách chênh lệch những 11 tuổi, sẽ là sự lầm lẫn lớn.
Vào năm 1939, Hồ Chí Minh ở Ban huấn luyện cán bộ du kích Nam Nhạc, có đầy đủ
chứng cứ ghi trong cuốn sách "Thông tin về đồng môn", đã đưa công
khai lý lịch của ông qua phần phụ lục dưới đây:
Chức vụ: Thiếu tá
Tuổi: 38
Quê
quán: Quảng Đông
Đơn vi: Tập đoàn quân 18
Tốt nghiệp trường nào: Lĩnh Nam đại học
Từng làm công tác gì: Giáo viên trung học, hiểu trưởng trường
ngoại ngữ.
Tên họ: Hồ Quang. Hồ Quang chính là bí danh Hồ Chí Minh từ
năm 1939 đến 1942 sau khi từ Mạc Tư Khoa về Trung Quốc. Bí danh của Hồ Chí Minh
ở Liên Xô là P.C.Lin (Lin là phiên âm của chữ "Lâm", cũng là họ bên vợ
của Hồ Tập Chương tại Đài Loan Lâm Quế muội. "P.C" thì không rõ có dụng
ý gì, nhưng chữ "Quang" trong "Hồ Quang" thì chính là tên
người con trai duy nhất của ông ở Đài Loan "Hồ Thự Quang". Gia phả họ
Hồ tại Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan có ghi như sau: Đời thứ 21 dựa vào hàng chứ "Tập" như Tập
Trân, Tập Phỉ, Tập Chương, Tập Dưỡng v.v... Đời thứ 22 dự vào hàng chứ
"Quang" như Sùng Quang, Quan Quang, Hoán Quang, Thự Quang
v.v...
Chức vụ: Thiếu tá, nhân viên điện đài tân văn (Tân văn đài
thiếu hiệu đài viên). Hồ Quang đích thực là nhân viên điện đài của Ban huấn luyện
cán bộ du kích Nam Nhạc, Hành Sơn, Hồ Nam, phụ trách thu thập thông tin từ các
đài phát thanh. Tôi rất chú ý đến chi tiết, chưa đầy nửa năm, sau khi theo Diệp
Kiếm Anh làm cần vụ, từ một anh binh nhì, Hồ Quang được thăng lên cấp bậc thiếu
ta, điện đài viên, phụ trách thu lượm tin tức từ các đài phát thanh. Đối chiếu
với Hồ Quang trong "Thông tin về đồng môn", ta sẽ thấy xuất hiện manh
mối. Họ tên người xếp phía trước là Trần Tử Anh, cấp bậc trung tá trưởng đài, tốt
nghiệp Đại học Nhật Bản đế quốc, đơn vị công tác là Tập đoàn quân 18. Người ở
phía dưới là Tưởng Tuyết Ảnh, cấp bậc thượng úy, đài viên, lưu học sinh tại Nhật
Bản, đơn vị công tác là Tập đoàn quân 18. Hồ Quang vốn là đảng viên Đảng Cộng sản
Trung Quốc, phụ thuộc vào Tập đoàn quân 18. Những nhân viên chuyên môn điện đài
thu thập thông tin tình báo từ Nhật Bản đều từng học tại Nhật và thông thạo tiếng
Nhật. Hồ Quang (Hồ Tập Chương) phụ trách công việc này hiển nhiên là rất phù hợp.
Tuy nhiên, ở mục "Quá trình học tập và tốt nghiệp trường nào", Hồ
Quang lại không đăng ký "Tốt nghiệp Đại học Công nghiệp Đài Bắc". Rõ
ràng, thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, Hồ Tập Chương từng học tiểu học,
trung hoạc rồi Đại học Công nghiệp Đài Bắc, vì thế, trình độ tiếng Nhật và văn
hóa Nhật của ông rất khá.
Tuổi 38: Ngày 11 tháng mười hai năm 1938, "Đài Loan nhật
nhật tân báo" đăng tải bài viết về Hồ Tập Chương nói ông 38 tuổi mà năm
sinh đích thực của Hồ Chí Minh không phải là năm sinh của Nguyễn Ái Quốc. Theo
thông tin chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19
tháng năm năm 1890, đến năm 1939 đã 49 tuổi. Trong khi đó, giai phả họ Hồ Miêu
Lật ghi, Hồ Tập Chương sinh vào giờ Thân, ngày 11 tháng mười năm Tân Sửu, tức
năm Minh Trị thứ 34, chuyển sang dương lịch là năm 1901, vừa tròn 38 tuổi. Điều
này càng chứng tỏ, Nguyễn Ái Quốc của Việt Nam không phải là Hồ Chí Minh, Hồ
Chí Minh chính là Hồ Tập Chương đến từ Miêu Lật, Đài Loan.
Quê quán gốc Quảng Đông: Quê gốc Nguyễn Ái Quốc là làng Kim
Liên, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Quê gốc của Hồ Quang
(Hồ Tập Chương) ở huyện Trường Lạc, phủ Huệ Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc,
vì thế ông mới đăng ký nguyên quán Quảng Đông. Là người Quảng Đông, nói tiếng
Quảng Đông lưu loát, tự nhiên hợp tình hợp lý. Dưới đây là bản phụ lục gia phả
giản lược họ Hồ Miêu Lật do thân phụ Hồ Tập Chương là Hồ Dần Lượng ghi chép:
"Đài Loan nhật nhật tân báo" và "Nhật ký
trong tù"
Hồ Tập Chương tức là Hồ Chí Minh, nếu ta liên kết các sự kiện
lại với nhau. "Đài Loan nhật nhật tân báo" đưa tin, Hồ Tập Chương tốt
nghiệp Khoa Hóa học ứng dụng, Đại học Công nghiệp Đài Bắc, từng làm kỹ sư giám định
chất lượng khoáng sản trong công ty khai thác và tinh tuyển khoáng thạch Nam
Phương thực nghiệp Quảng Đông tại tỉnh Quảng Tây. Đối với Hồ Tập Chương, việc
khai thác, tinh luyện, giám dịnh khoáng sản chính là chuyên môn của ông. Trong
khi đó, Hồ Chí Minh vào năm 1942 - 1943 bị Quốc dân đảng bắt giam 1 năm 12
ngày. Trong thời gian bị giam giữ, Hồ Chí Minh viết tập thơ "Nhật ký trong
tù", trong đó, bài thứ 28 có nhan đề "Bạn tù nguyên chủ nhiệm L"
viết:
Quốc gia phó thác giữ biên khu
Sao nhãng việc công mải việc tư
Khoáng sản tuồn qua biên giới hết
Nên lò đúc bạc đúc thơ tù.
Giáo sư Hoàng Tranh chú giải bài thơ như sau: "Phía
tây nam biên giới Quảng Tây có nhiều quặng antimoine (cứng và có ánh kim), Hồ
Chí Minh viết bài thơ này để bình luận về một đồng sự đem loại quặng này bán lậu
qua biên giới lấy tiền bỏ túi, chính là hành vi tham ô phá rối kỷ cương của
nguyên chủ nhiệm L.".
"Đài Loan nhật nhật tân
báo" viết: "Hồ Tập Chương từng làm kỹ sư giám định chất lượng khoáng
sản trong công ty khai thác và tinh luyện khoáng thạch (antimoine) "Nam
Phương thực nghiệp Quảng Đông" tại vùng mỏ Quảng Tây. Việc này rất phù hợp
với tập thơ "Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh. "Nguyên chủ nhiệm
L." vốn là đồng sự ngày trước, vì bán trộm quặng antimoine lấy tiền bỏ
túi, chẳng may lại gặp Hồ Chí Minh tại nhà ngục Tĩnh Tây nên rơi vào hoàn cảnh
khó xử". Việc này há chẳng gián tiếp chứng thực Hồ Tập Chương và Hồ Chí
Minh cùng là một người sao?
Chấp hành mật lệnh của Quốc
tế cộng sản, Hồ Chí Minh tìm cách
thâm nhập vào Quân khu Quảng Châu Nhật Bản làm thông dịch, thời gian khoảng 2
tháng, động cơ không hoàn toàn rõ ràng. Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử lúc ấy mà
nhận xét thì cũng không ngoài việc đánh cắp thông tin tình báo của quân đội Nhật,
phân tích thông tin đối ngoại của Nhật, có thể lôi kéo được quân đội Nhật, nhờ
Nhật giúp đỡ Việt Nam đánh Pháp, triển khai trận tuyến liên hợp giữa Đảng Cộng
sản và quân đội Nhật.
Thế nhưng, vào thời điểm ấy, quân đội Nhật lại ưu tiên giúp
đỡ chính quyền bù nhìn của hoàng thân Cường Để, cho nên Quốc tế cộng sản mới sử
dụng thân phận Hồ Chí Minh với mục đích thân Nhật đã hoàn toàn thất bại. Tuy
nhiên, tình thế xoay chuyển, khó ai dự đoán chính xác được diễn biến thời cuộc,
chính bởi việc Hồ Chí Minh thâm nhập vào quân đội Nhật Quảng Đông không đạt kết
quả đã bộc lộ lai lịch phức tạp của ông. Việc này có lẽ phù hợp với câu cách
ngôn "Lưới trời tuy thưa mà không lọt ", mặc cho bất cứ sự chối cãi
nào.
Hồ Chí Minh có phải là người Trung Quốc?
Hồ Chí Minh là người Trung Quốc hay người Việt Nam? Có
không ít Hoa kiều ở Việt Nam coi Hồ Chí Minh là người Việt Nam bị Trung Quốc
hóa. Họ căn cứ vào lý do Hồ Chí Minh biết nói tiếng Quảng Đông, biết viết chữ
Hán, lại biết làm thơ chữ Hán, từ đó cho rằng tổ tiên ông là người Trung Quốc
di cư sang Việt Nam, vì vậy đương nhiên là người Trung Quốc.
Những nhận định này, về cơ bản đều không giải thích được tiểu
sử của Nguyễn Ái Quốc, bởi họ chịu ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông
chính thống nhà nướcViệt Nam khẳng định Nguyễn Ái Quốc biết nói tiếng Hán và
làm thơ chữ Hán. Từ năm 1938 đến 1945, sau khi Hồ Chí Minh đến Trung Quốc, đã
hoàn toàn biến thành một người khác, hầu như không còn bóng dáng Nguyễn Ái Quốc
. Hồ Chí Minh chưa từng mở miệng nói tiếng Việt, thậm chí tự mình cũng không hiểu
tiếng Việt, trái lại, nói tiếng Quảng Đông rất thành thạo hoặc dùng tiếng phổ
thông nói chuyện với mọi người. Hồ Chí Minh cũng không dùng tiếng Pháp hoặc tiếng
Việt viết văn, trái lại, đều sử dụng Hán ngữ với số lượng lớn trong các bài viết
chuyên đề, chuyên luận, bao hàm cả 134 bài thơ trong tập "Nhật ký trong
tù". Càng kỳ lạ hơn là, Hồ Chí Minh dùng chữ Hán viết thư gửi về Việt Nam,
lại được các báo, tạp chí Việt Nam dịch sang tiếng Việt và tiếng Pháp, rồi phổ
biến khắp các địa phương, tuyên truyền Trung Quốc kháng Nhật cùng những hoạt động
của phái Troskism tại Trung Quốc. Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh còn không dám thừa nhận
mình là Nguyễn Ái Quốc, chỉ biểu thị thái độ ba phải, tự cho mình là Hoa kiều.
Hồ Chí Minh đã từng gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, tham gia lớp huấn luyện
cán bộ du kích của quân đội Trung Cộng. Tất cả những thái độ khác thường, những
hành vi không phù hợp đạo lý trên, tác giả chỉ có thể giải thích, từ năm 1938 đến
năm 1945, Hồ Chí Minh hoạt
động ở Trung Quốc không phải là Nguyễn Ái Quốc người Việt Nam. Liên quan đến khả
năng nghe, nói, đọc và viết chữ Hán, tôi đã trình bày trong Thiên V, nhan đề
"Chữ Hán, 'Nhật ký trong tù' và 'Di chúc'”. Ở phần này, thời gian từ năm
1938 đến năm 1945, Hồ Chí Minh hoạt động tại Trung Quốc, tôi đã đưa ra những tư
liệu để so sánh, đối chiếu, xem xét, vậy rốt cuộc, Hồ Chí Minh là người Trung
Quốc hay người Việt Nam?
Bảy bức thư từ Trung Quốc
Từ tháng mười hai năm 1938 đến tháng sáu năm 1939, Hồ Chí
Minh lấy tư cách ký giả Trung Quốc, bí danh P.C.Lin, qua phương thức "Thư
từ nước ngoài", viết bằng chữ Hán (bản thảo viết tay), từ Quảng Tây gửi về
Hà Nội: "Người Nhật Bản muốn khai hóa Trung Quốc như thế nào?" (tháng
mười hai năm 1938), "Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng hai năm 1939),
"Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng ba năm 1939), "Chủ nghĩa anh hùng
của nhân dân Trung Quốc chống Nhật" (tháng tư năm 1939), "Thư gửi từ
Trung Quốc" (tháng tư năm 1939), "Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng
năm năm 1939), "Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng sáu năm 1939)... trong
đó có một bài "Nhật Bản khai thác Trung Quốc như thế nào?" dài khoảng
hai nghìn chữ. Tạp chí bằng tiếng Pháp "Tiếng nói của chúng ta", số
ra ngày 12 tháng hai năm 1939 có đăng bài viết này nhưng nhan đề đã được đổi
thành "Các hành động tàn bạo của đế quốc Nhật Bản". Tờ báo tiếng Việt
"Dân chúng" kỳ 46, ra ngày 21 tháng giêng năm 1939, kỳ 47, ngày 24
tháng giêng năm 1939 và kỳ 48, ngày 28 tháng giêng năm 1939 dã đăng toàn văn bản
dịch này.
Hồ Chí Minh lấy tư cách ký giả Trung Quốc, bút danh P.C.Lin
thông qua phương thức"Thư gửi từ nước ngoài", gửi 7 bài bằng chữ Hán
đến Việt Nam. Những sự việc bất bình thường này làm các nhà nghiên cứu bắt buộc
phải chú ý. Hồ Chí Minh lấy bí danh P.C.Lin, việc này chứng tỏ, Hồ Quang đã ở
Trung Quốc năm 1939 và P.C.Lin vào đầu năm 1934 ở Mạc Tư Khoa chỉ là một người.
Trong khi ấy, theo hồ sơ lưu trữ tại Mạc Tư Khoa thì, P.C.Lin lại là Nguyễn Ái
Quốc, người Việt Nam, vậy thì tại sao ông ta lại đến Quế Lâm trong vai ký giả
Hoa kiểu? Nguyễn Ái Quốc bỗng nhiên không biết dùng tiếng Việt, chữ Việt để viết
văn mà bắt đầu viết những bài trường thiên đại luận bằng chữ Hán. Không những
thế, phong cách văn chương, nội dung diễn đạt đều khác xa với cách viết của
Nguyễn Ái Quốc trước đây, càng kỳ lạ hơn, khi mà trong nội dung các bài viết,
nhiều lần xuất hiện cụm từ "Tôi là người Trung Quốc", "Tôi không
hiểu tiếng Việt Nam".
Nếu so với thời kỳ năm 1925 - 1926, Nguyễn Ái Quốc ở Quảng
Châu viết 88 bài xã luận bằng tiếng Pháp đăng trên báo "Thanh niên"
thì có vẻ như phong cách khác nhau rất xa. Thật sự không thể biết vì sao đột
nhiên ông lại thành thục Hán ngữ như vậy? Trong 7 bài viết, trừ 2 bài lên án
hành vi xâm lược tàn bạo của đến quốc Nhật, 5 bài còn lại dưới hình thức
"Thư gửi từ Trung Quốc", một bài viết về tình hình kháng chiến chống
Nhật của nhân dân Trung Quốc, một bài kiểm điểm quá trình hoạt động quân sự ở
Việt Nam, 3 bài giới thiệu chủ nghĩa Trosky và những hoạt động của phái
Troskism ở Trung Quốc. Văn chương sử dụng kiểu xưng hô là "Bạn bè của
chúng tôi" hoặc "Các bạn thân mến", cuối bài ký tên P.C.Lin. Xin
trích lục một đoạn ở thiên thứ nhất "Nhật Bản muốn khai thác Trung Quốc
như thế nào?". Phần đầu, Hồ Chí Minh viết: "Thân là người Trung Quốc,
nếu như tôi nói tôi đã nhìn thấy tận mắt những hành vi tàn bạo của quân đội Nhật
Bản, thì có lẽ người ta sẽ cho là nói quá lên. Vì vậy, xin trích lời một ký giả
ngoại quốc đã viết về các hành vi bạo ngược của quân đội Nhật Bản. Bài báo này
đã được in trong "Ý nghĩa của chiến tranh, sự bạo hành của quân đội Nhật Bản
ở Trung Quốc", để báo cáo với các bạn. Ngoài ra, tôi còn kèm thêm một số
bài đă đăng tải trên những tờ báo rất có uy tín, trong đó có lời kể của các vị
tư lệnh Tân Tứ quân và Bát Lộ quân nhân dân cách mạng".
"Người Nhật Bản muốn khai thác Trung Quốc như thế
nào?". Từ "khai thác" là theo bản tiếng Việt trong "Hồ Chí
Minh toàn tập" được chuyển từ Hán ngữ. Giáo sư Hoàng Tranh trong tác phẩm
"Hồ Chí Minh ở Quảng Tây" đã trực tiếp đăng lại nguyên văn "Nhật
Bản muốn khai hóa Trung Quốc như thế nào?' mà không lưu ý đến hai từ "khai
thác" và "khai hóa", như vậy không phù hợp với cách dùng từ của
Trung văn. Chẳng những thế, phần nội dung lại chèn thêm những cụm từ "Tư lệnh
Nhật Bản nói", "Tình hình quân đội Nhật Bản chứng tỏ" v.v... Tôi
rất lấy làm lạ, Nguyễn Ái Quốc vào thời gian nào học tiếng Nhật, tiếp xúc với
văn hóa Nhật mà có những bài viết sâu sắc như vậy?
Bảy bản báo cáo gửi Quốc tế cộng sản
Từ ngày 20 tháng tư năm 1939 đến 12 tháng bảy năm 1940, Hồ
Chí Minh gửi Quốc tế cộng sản Mạc Tư Khoa 7 bản báo cáo. Trên đầu các báo cáo đều
xưng là Ủy viên hội Quốc tế cộng sản Phương Đông hoặc Ủy viên chấp hành Quốc tế
cộng sản, cuối bài ký tên P.C.Lin, hoặc phụ thêm cam kết "Tiếng nói của
chúng ta". Có bản viết bằng tiếng Pháp, có bản viết bằng chữ Hán, nội dung
báo cáo về tình thế cách mạng Việt Nam, sự phát triển cũng như hoạt động của
phái Troskism tại Trung Quốc. Trong số này, có một báo cáo đề ngày 12 tháng bảy
năm 1940, dùng tiếng Trung, dài 12 trang, ký tên P.C.Lin, gửi Ủy viên Phương
Đông hội Mạc Tư Khoa mà trước đây, các báo cáo gửi đến Quốc tế cộng sản chưa
bao giờ Nguyễn Ái Quốc dùng Trung văn. Từ nội dung văn bản báo cáo, tôi đã tiến
hành phân tích và nhận thấy, về căn bản, không giống với văn bản của người Việt
Nam viết. Điều đó chứng tỏ P.C.Lin không phải là Nguyễn Ái Quốc. Nội dung bài
viết về Việt Nam hoặc giới thiệu địa lý, nhân văn, tài nguyên, chế độ chính trị
Việt Nam đều dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, đặc biệt có một số danh từ khá
kỳ lạ, ví như "Đảng Cộng sản An Nam đã vượt quá vạn người" (đảng viên
Hoa kiều), có ba cái tên tay sai "Hán gian", truyền đơn cảnh cáo của
"Việt kiều", gọi Tưởng Giới Thạch là "Tưởng công", Tống Tử
Văn là "Tống công", Bạch Sùng Hy là "Bạch công" v.v... tất
cả những từ ngữ đã dùng đều không phải là từ, ngữ thông dụng của người Việt
Nam.
Cũng tương tự như vậy, khi Hồ Chí MInh nói về những vấn đề
liên quan đến phái Troskism ở Trung Quốc, về cơ bản không phải là cách sử dụng
giọng điệu của người Việt Nam. Ví dụ như: "Phái Troskism liên tục phản bội
Tổ quốc chúng ta như thế nào?", "Phái Troskism Liên Xô chẳng những đã
bán rẻ vùng duyên hải Siberie cho đế quốc Nhật mà còn có ý đồ bán cả đất nước
Trung Quốc của chúng ta cho chúng", "Tháng chín năm 1931, chính vào
lúc quân đội Nhật chiếm đóng Mãn Châu, Cục tình báo Nhật ở Thượng Hải bám theo bọn Troskism. Hai bên đã ký kết hợp đồng với
nhau, nội dung như sau: Phái Troskism cam kết không tiếp tục tuyên truyền cản
trở Nhật Bản xâm lược. Cục tình báo Nhật Bản cam kết, trả cho phái Troskism mỗi tháng ba ngàn dollars để Trần Độc
Tú và đồng bọn hoạt động. Chúng lấy tiền của Nhật xuất bản báo chí, thay Nhật
tuyên truyền cái gọi là "Quân đội Nhật đến Mãn Châu chỉ hy vọng nhanh
chóng giải quyết vấn đề tranh chấp, hoàn toàn không có một chút ý đồ xâm chiếm
Trung Quốc". Cục tình báo Nhật đã thừa nhận, những ngườiTroskism tại Thượng Hải, mỗi tháng nhận được mười
ngàn dollars để hoạt động tại miền trung và miền nam Trung Quốc. Ở Thiên Tân và
Bắc Kinh, phái Troskism nhận được năm mươi ngàn dollars mỗi
tháng làm kinh phí hoạt động ở vùng Hoa Bắc. Mục đích của họ chỉ là phản đối
Bát Lộ quân và các tổ chức yêu nước".
Trong các bức thư, tác giả thường dẫn dụng "Nhật Bản
quân tình cục" (Cục tình báo Nhật Bản), "Nhật Bản mật thám",
cùng với "Nhật Bản nội mạc đích tiêu tức" (Tin tức nội bộ nước Nhật).
Ví như: "Chỉ cần 2 sư đoàn là có thể chinh phục Đông Dương", "Nhật
Bản chi ra mười tỷ yên và hy sinh hoặc chịu thương tật bảy vạn người là cái giá
để chiếm 12 tỉnh của chúng ta", xem ra chuyện này thật kỳ lạ. Nguyễn Ái Quốc
học tiếng Nhật thông thạo từ lúc nào mà có mối quan hệ với "Nhật Bản mật
thám", gọi phiên hiệu quân đội Nhật là "sư doàn", thậm chí, sau
khi nước Pháp đầu hàng phát xít Đức, ông còn bình luận về tương lai của Việt
Nam như sau: "Người Pháp... người Đức... ngưới Anh... người Mỹ... người
Trung Quốc... người Nhật Bản...,chính phủ Pháp giải quyết vấn đề Việt Nam như
thế nào? Dự định giao cho nước Đức? Hoặc là trao trả cho Việt Nam? Chẳng bằng
đem Việt Nam trao cho Nhật Bản là tốt hơn cả. Ngược lại, người Việt Nam có suy
nghĩ như thế nào về Nhật Bản? Bởi vì họ đã vô cùng căm hận nước Pháp mà lại
chưa từng được nghe về việc Nhật Bản cưỡng bức, bạo hành, tàn sát nhân dân Trung Quốc. Vì thế, một
khi họ nhận thấy đất nước vẫn không được đôc lập tự do, thì bọn giặc lùn này
cũng chẳng khác gì giặc Pháp".
Đoạn văn trên đâu có phải là của Nguyễn Ái Quốc viết trong
báo cáo gửi Quốc tế cộng sản. Ngoài ra, còn có những câu "Ở các tỉnh Bắc Kỳ
có một đảng xưng là "Bảo hoàng". Họ ra một tờ báo, các quan lại dựa
vào thế lực hoàng đế để hoạt động". Trung Quốc dưới tiều đại Mãn Thanh có
một tổ chức gọi là "Đảng Bảo hoàng" ra đời nhằm củng cố chính quyền,
trong khi đó , ở Việt Nam xuất hiện phong trào "Cần vương", chắc là
chưa từng nghe tên tổ chức "Đảng Bảo hoàng". Cách dùng từ ngữ kiểu
như thế rất nhiều, không thể liệt kê hết. Cho nên, tôi dám khẳng định, người ký
tên P.C.Lin trong các bản báo cáo tuyệt nhiên không phải là Nguyễn Ái Quốc mà
phải là một người tinh thông Nhật ngữ, đồng thời lại phải uyên thâm Hán văn viết.
Mười một (11) bài viết trong "Cứu vong nhật báo"
Sau khi Quảng Châu thất thủ, tờ "Cứu vong nhật
báo" chuyển về Quế Lâm, Quảng Tây, đến đầu năm 1939 thì xuất bản trở lại
do Quách mạt Nhược làm chủ bút, Hạ Diễn làm tổng biên tập. Các bài viết của Hồ
Chí Minh trên "Cứu vong nhật báo đều ký tên "Bình Xuyên" với 11
bài chuyên đề, nguyên tác bằng Trung văn, gồm có: "Thiên thượng cố muội"
(15 tháng 11 năm 1940), "Ếch đầm và trâu vàng" (24 tháng 11 năm
1940), "Tiên sinh Roosevelt
và trò đùa dai" (27 tháng 11 năm 1940), "Hai chính phủ
Versailles" (29 tháng 11 năm 1940), "Phao tin" (1 tháng 12 năm
1940), "Báo chí Trung Quốc nói về nhân dân Việt Nam" (2 tháng 12 năm
1940), "Ca dao An Nam về Trung Quốc kháng chiến" (4 tháng 12 năm
1940), "Thật giả lẫn lộn" (5 tháng 12 năm 1940), "Bàn về huyết
thống" (8 tháng 12 năm 1940), "Nghĩa Đại Lợi (Italia) thực bất đại lợi"
(16 tháng 12 năm 1940), "Quân Phục quốc Việt Nam thành quân Bán nước Việt
Nam" (18 tháng 12 năm 1940). Đặc điểm của 11 bài chuyên đề là ngôn ngữ
phong phú, ngụ ý sâu sắc. Nội dung văn chương đều nói đến thời kỳ Chiến tranh
Thế giới thứ hai và quan điểm của mình về tình hình chính trị, đặc biệt là kịch
liệt phản đối phát xí Nhật và phát xít Đức. Hầu hết các bài viết đền nhấn mạnh
hai nước Trung - Việt là đồng minh chống chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít.
Từ 11 bài viết này, chưa cần nói đến nội dung thông tin phản
ánh, chỉ căn cứ vào ngữ pháp câu văn và phong cách diễn đạt, ta cũng dễ dàng nhận
ra, không thể do người Việt Nguyễn Ái Quốc mà phải là một người Trung Quốc có
trình độ hiểu biết khá rõ về Nhật bản viết. Xin dẫn ra 3 ví dụ để chứng minh:
1 - Trong bài "Báo chí Trung Quốc nói về nhân dân Việt
Nam", tác giả dùng ngôi thứ nhất: "Phong trào vận động giải phóng Việt
Nam là quân Đồng Minh Trung Quốc kháng chiến chống Nhật. Trên tinh thần và vật
chất, chúng ta dành cho họ sự cổ động và giúp đỡ. Tôn tiên sinh(5) thường dạy chúng ta là phải giúp đỡ
các nước nhược tiểu, cùng nhau phấn đấu giành lấy độc lập tự do, vì vây, chúng
ta phải thực hiện di huấn ấy".
2 - Tong bài "Ca dao An Nam nói về cuộc kháng chiến của
Trung Quốc", Hồ Chí Minh lấy giọng ký giả Trung Quốc, đưa tin nhân dân Việt
Nam chi viện Trung Quốc kháng chiến. Bài viết có đoạn: "Khi ký giả đến Việt
Nam, ở thành thị cũng như nông thôn, đều lan truyền một bài hát, tuy tôi không biết tiếng Việt nhưng nghe đến câu "Giúp Tàu là tự
giúp mình" (Niếp tào la tự niếp minh) cũng có thể hiểu được lời ca này đồng
tình với nhân dân Trung Quốc. Sau này ở Hà Nội, tôi đem sự việc trên nói với một
Hoa kiều đang sống ở Việt Nam, ông ta bảo, đại đa số nhân dân Việt Nam đều ủng
hộ Trung Quốc kháng chiến, họ còn cấu mong cho chúng ta chiến thắng. Từ đoạn
văn vừa dẫn, ta có thể biết được, thời kỳ đầu những năm 1940, việc nghe và nói
tiếng Việt đối với Hồ Chí Minh là rất khó khăn. Trong bài viết của mình, Hồ Chí
Minh đã hướng đến độc giả Trung Quốc, giới thiệu việc ông đã chỉnh lý bài ca
dao "Cứu Trung Quốc là tự cứu mình", xin trích dưới đây để bạn đọc
tham khảo:
Nguyên văn:
Cứu Trung Quốc thị tự cứu tự kỷ
Nhật bản đông phương pháp tây tư(6)
Dã man, hung bạo hựu tàn khốc
Phát động liễu xâm hoa chiến
tranh
Trung Quốc nhân dân bị đồ độc
Nhân bị sát liễu gia bị phần
Mãn địa huyết hồng mãn sơn cốt
Phi cơ tạc đạn vô khả miễn
Ngạ hàn tật bệnh nan sinh hoạt
Tha môn gian khổ địa đấu tranh
Bảo vệ dân chủ dữ hòa bình
Tha môn nhu yếu viện trợ giả
Tha môn nhu yếu hữu đồng tình
Nhật quỷ hướng thế giới tiến
công
Tha thị nhân loại chi công địch
Việt Nam huynh đệ thư muội
a
Khoái khoái khởi lai trợ
Trung Quốc
Nỗ lực bang trợ Trung Quốc
nhân
Trung Quốc Việt Nam như
thần xỉ
Tu tri thần vong tắc xỉ hàn
Cứu Trung Quốc thị tự cứu kỷ.
Tạm dịch:
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
Phương đông Nhật Bản nước phát xít
Dã man hung bạo lại tàn khốc
Phát động chiến tran xâm Trung
Hoa
Nhân dân Trung Quốc bị thống
khổ
Người thì bị giết, nhà bị đốt
Xương chất thành núi, máu ngập
đất
Máy bay ném bon không chỗ ẩn
Bệnh tật, đói rét khó sống sót
Nhưng họ vùng lên quyết đấu
tranh
Bảo vệ dân chủ và hòa bình
Trung Quốc rất cần sự giúp đỡ
Trung Quốc rất cần tình đồng
chí
Quỷ Nhật tấn công cả thế giới
Trung Quốc kháng Nhật vì nhân
loại
Việt Nam vỗn dĩ là anh em
mau mau đứng lên giúp Trung Quốc
Hết sức giúp đỡ người Trung Quốc
Trung Quốc, Việt Nam môi với
răng
Nên biết môi hở tất răng lạnh
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
3 - Trong bài "Quân Phục
quốc Việt Nam thành quân Bán nước Việt Nam", Hồ Chí Minh bỗng nhiên lại
không biết tiếng Nhật hoặc tỏ ra không hiểu mối quan hệ Việt - Nhật vào thời điểm
ấy. Tôi lại xin trích dẫn một đoạn để chứng minh: Năm 1907, Nhật Bản xét thấy
"Hiệp ước Nhật Pháp" đối với Nhật là rất có lợi, lập tức ra lệnh đuổi
tất cả thanh niên Việt Nam về nước, chỉ còn hoàng thân Cường Để và con nuôi ông
ta là Trần Văn An, được thủ tướng Inukai Tsuyoshi, lấy tư cách cá
nhân cho phép ở lại Nhật Bản, với ý đồ, trong tương lai sẽ đưa ông ta lên làm
vua bù nhìn Việt Nam. Sau năm 1931, Trần Văn An đã từng giữ chức vụ bộ trưởng
Ngoại giao trong chính phủ Mãn Châu. Năm 1938, sau khi Quảng Châu thất thủ, Trần Văn An trở về
khu vực biên giới Quảng Đông - Việt Nam. Cuối tháng chín năm ấy, Nhật Bản xâm
chiếm Việt Nam, Nguyễn Cường Để, Trần Văn An cũng theo về hoạt động ở vùng Lạng
Sơn - Cao Bằng. Chúng tôi ở Trung Quốc rất hiểu lầm về tình hình Việt Nam. Ví dụ
như, ngày mồng 5 tháng này, các báo đều đưa tin, bọn địch ở vùng phụ cận Lạng
Sơn chiêu mộ dân chúng, tổ chức "Phục quốc quân", mỗi người được lĩnh
30 đồng một tháng, cán bộ các cấp dều do quân địch tuyển chọn, số người đã lên
đến hàng vạn. Mục đích của họ là xúi giucj dân chúng giành chính quyền từ tay
thực dân Pháp, sau đó đất nước sẽ do họ thống trị". Vào ngày mồng 10, các
báo đưa tin khác nhau: "Những ngày gần đây, phong trào giải phóng dân tộc
Việt Nam lại càng sôi sục, tư lệnh Việt
Nam Phục quốc quân Trần Mỗ, mấy ngày trước đã phát động khởi nghĩa. Dân chúng
chuẩn bị lương thực rầm rộ đi theo, trước mắt đã thu hút được vài vạn người...".
Thế là ngày mồng 5 thành lập tổ chức Việt gian "Phục quốc quân" mà
ngày mồng 10 "Phục quốc quân" lại biến thành đội tiên phong cách mạng
dân tộc? "Phục quốc quân" là bộ đội vũ trang của nhân dân Việt Nam
hay đã trở thành tổ chức Việt gian? Rốt cuộc, đó có phải là lực lượng vũ trang
chân chính của nhân dân Việt Nam? Cái người họ Trần kia thực chất là ai? Ký giả
căn cứ vào các thông tin, sau khi tiến hành điều tra, có thể khẳng định, Trần Mỗ
chính là Trần Văn An. Ngụy "Phục quốc quân" và "Phục quốc
quân" là hai hợp làm một, mà cũng là một phần của hai. Lực lượng vũ trang
chân chính của nhân dân Việt Nam chưa ra đời. Trước mắt tôi xét thấy có mấy điểm
như sau:
a - Người Nùng ở Lạng Sơn suy
nghĩ đơn thuần, do đã căm thù đến tận xương tủy đế quốc Pháp, không hiểu rõ lai
lịch Trần Văn An, chỉ nghe thấy mấy tiếng "Phục quốc quân" liền lập tức
đi theo. Một khi được biết Trần Văn An là Việt gian, họ nhất định từ bỏ
"Phục quốc quân", tham gia vào đội ngũ giải phóng dân tộc chân chính.
b - Lúc này, Nhật Bản đang bị
Anh, Mỹ, Nga cản trở, chưa dám kéo quân vào Việt Nam. Chúng hy vọng Việt Nam có
nhiều tài nguyên nên tìm cách chiêu mộ Việt gian, ra sức nhiễu loạn lòng dân, tạo
cớ xâm lược Việt Nam.
c - Quân địch không ở Việt Nam
nên chúng tìm cách tổ chưc, nuôi dưỡng lực lượng Việt gian chiêu mộ tại vùng
biên giới Quảng Tây, Lạng Sơn, Cao Bằng. Sự kiện này khiến chúng ta phải thật
chú ý.
d - Chúng tôi có nhu cầu cần
phân biệt rõ ràng những đoàn thể chính trị và vũ trang chân chính của Việt Nam,
quyết không chấp nhận các tổ chức hoạt động Việt gian, lại càng không thể chấp
nhận những tổ chức hoạt động thổ phỉ hoặc bị kẻ địch lôi kéo.
(Tác giả nhận định: "Inukai Tsuyoshi" là thủ tướng
Nhật lúc ấy, "uy khấu", "địch quân", "tha môn" là
chỉ quân đội Nhật Bản, các báo là
chỉ "Cứu vong nhật báo" lúc ấy ở Quảng Tây, "Quảng Đông nhật
báo", "Tảo đãng báo" v.v... "ký giả" chỉ Hồ Chí Minh lúc ấy lấy bí danh Hồ
Quang với tư cách Hoa kiều Trung Quốc. Khoảng năm 1940 đến 1941, hoàng thân Cường
Để cũng đến Đài Loan với động cơ không rõ ràng. Thời gian từ tháng mười một đến
tháng mười hai năm 1938, Hồ Tập Chương đến Quảng Đông, thâm nhập vào Bộ tư lệnh
Quân khu Quảng Châu Nhật Bản làm thông dịch, hiển nhiên giai đoạn lịch sử này
có mức độ liên quan tương đối với nhau).
4 - "Thiên thượng cố muội":
Thật ra tôi cũng không hiểu bốn chữ "Thiên thượng cố muội" là như thế
nào. Chúng có phải do từ ngữ Việt Nam chuyển dịch sang chữ Hán hay là nguyên bản
chữ Hán? Nội dung "khai tông minh nghĩa" ("mới bắt đầu đã nêu ý
nghĩa chủ yếu", chương I "Hiếu kinh"): Câu này vốn là tục ngữ Việt
Nam tương ứng với câu trong Hán văn "Thiên công hữu mục" (ông trời có
mắt) từ khi nước Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, hiện tại nước Pháp bị phát xít
Đức chiếm đóng, há chẳng ứng nghiệm "ông trời có mắt" sao?
Theo nội dung văn bản mà cân
nhắc câu chữ "Thiên thượng cố muội" nên chuyển đổi thành "Thiên
công hữu mục" mới phù hợp với nội dung tiêu đề. Lẽ nào Hồ Chí Minh lại gửi
"Cứu vong nhật báo" bản thảo chuyên mục nhan đề bằng chữ Việt còn nội
dung mới bằng chữ Hán? Căn cứ vào "Hồ Chí Minh toàn tập", tập III, xuất
bản năm 2002, nhan đề bài này là "ÔÔNG-TRÔI-CO-MAT" thì không thể nào
dịch được, mà "Thiên công hữu mục" lại tương ứng với "Ông trời
có mắt" của Việt Nam mới mới chính xác. Do vậy, tôi cứ băn khoăn, không hiểu
lúc ấy Hồ Chí Minh chưa thông thạo tiếng Việt, hay tiếng Việt chưa thống nhất
quy cách ngữ pháp, chưa tiêu chuẩn hóa hoặc cũng có thể là báo chí xuất bản mắc
lỗi?
Chuyện cũ Trang Chu hiểu
mộng
(Trang Tử, "Tề vật
luận") , kết vĩ, môt truyện ngụ ngôn lưu truyền "Trang Chu mộng điệp":
"Ngày trước, Trang
Chu nằm mơ thấy mình biến thành bướm, lướt bay bồng bềnh ngao du khắp nơi, quên
mất bản thân mình trước đây là Trang Chu, bỗng nhiên giấc mơ tan sực tỉnh mới
biết rõ mình lại là Trang Chu".
Không thể biết Trang Chu
nằm mơ hóa thành bướm hay là bướm nằm mơ hóa thành Trang Chu ? Rốt cuộc Trang
Chu và bướm là có sự phân biệt! Trang Tử căn cứ vào sự chuyển biến này mà viết
truyện (vật hóa). Cái mà Trang Tử gọi là "vật hóa" là chỉ cái khoảng
cách người và vật chuyển hóa. Quốc tế cộng sản mượn "phách" của Nguyễn
Ái Quốc để hóa thành "hồn" Hồ Chí Minh. Ý đồ đem Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minh hợp nhất hồn phách, chết mà lại sống, đây phải chăng có thể gọi là
"vật hóa"? Thời gian Hồ Chí Minh bị bắt giữ, thẩm vấn ở Quảng Tây,
thân phận của ông đã chuyển hóa giống như kết quả "vật hóa" của Trang
Chu, chỉ là thời gian này, Hồ Chí Minh không dám đột nhiên tự nhận mình là Nguyễn
Ái Quốc . Rốt cuộc việc này là như thế nào?
Thông thường, người đời
đều nhận biết tác giả "Nhật ký trong tù" đương nhiên là Hồ Chí Minh,
cũng chính là Nguyễn Ái Quốc. Việc này không có gì phải nghi ngờ. Thế nhưng,
lúc ấy, vào hạ tuần tháng giêng năm 1943, Hồ Chí Minh bị giải tới Văn phòng của
Ủy viên quân sự hội chính phủ Quốc dân đảng Quế Lâm để điều tra., vị Ủy viên
này tuyệt đối không điều tra lai lịch Hồ Chí Minh mà lại cho là "hiềm nghi
chính trị phạm", chuyển giao cho Ban chính trị "Đệ tứ chiến khu"
Liễu Châu xác minh. Sau đó, ngày 10 tháng chín năm 1943, Hồ Chí Minh được
"Đệ tứ chiến khu" Liễu Châu phóng thích, tiếp tục ở lại Ban chính trị
để giám sát. Cuối cùng, Văn phòng Ủy viên hội Quế Lâm và "Đệ tứ chiến
khu" Liễu Châu đã thống nhất phán quyết như sau: "Hồ Chí Minh bị nghi
ngờ hoạt động chính trị chống lại nhà nước, nhận thấy, ông ta là Hoa kiều tại
Việt Nam, là phần tử Đệ tam quốc tế, nhưng chưa khẳng định Hồ Chí Minh tức là
Nguyễn Ái Quốc".
Trong thời gian Hồ Chí
Minh bị giam giữ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhờ Phân hội "Quốc tế chống
xâm lược" ở Việt Nam, gửi điện đến viện trưởng Tôn Khoa và thông tấn xã
TASS của Liên Xô đóng tại Trùng Khánh để công bố thông tin. Đồng thời họ cũng
thông qua Chu Ân Lai nhờ Phùng Ngọc Tường và Lý Nhân Tông giải cứu, tuy vậy
cũng không thấy nói đến Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam. Mãi đến
ngày 10 tháng chín năm 1943, Hồ Chí Minh mới được phóng thích. Sau khi Hồ Chí
Minh về Việt Nam, Trung ương Quốc dân đảng, thông qua "Việt Nam cách mạng
đồng minh hội", đến ngày 1 tháng mười năm 1944, mới biết Hồ Chí Minh chính
là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói cách khác, từ tháng tám
năm 1942, Hồ Chí Minh bị Quốc dân đảng bắt, đến 23 tháng giêng năm 1944, Trương
Phát Khuê gửi thư đến Tưởng Giới Thạch đề nghị phóng thích, ông ta đều nói
quanh co về nhiệm vụ được cử đến Việt Nam công tác. Đối với Hồ Chí Minh, chính
quyền Tưởng Giới Thạch trước sau đều có sự nghi ngờ về lai lịch không rõ ràng,
còn Trương Phát Khuê thì nửa tin nửa ngờ nên mới tạm trọng dụng.
Từ ngày 9 tháng tám năm
1944 "Kế hoạch đại cương nhập Việt công tác" được Trương Phát Khuê
phê chuẩn cấp kinh phí là 7 vạn 6 ngàn đồng (nguyên), dẫn đầu gồm 18 cán bộ trở
về Việt Nam khai triển nhiệm vụ mới.
Tác giả Vương Tâm Cương
viết truyện "Trương Phát Khuê" trang 225 đã nói rất rõ ràng; "Hồ
Chí Minh trở về Việt Nam không lâu, ngày 1 thang mười năm 1944, Trung ương Quốc
dân đảng lúc ấy mới biết, Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Cộng sản Việt
Nam và Việt Minh". Cũng trang đó, tác giả viết tiếp: "Trương Phát
Khuê gửi công văn đến Tưởng Giới Thạch đề nghị phóng thích Hồ Chí Minh với lý
do "tỷ dư nhiệm vụ":
1- Chúng ta không phản đối
những người Cộng sản chủ nghĩa, đặc biệt là người Quốc tế cộng sản.
2 - Hồ Chí Minh chỉ thừa
nhận là cán bộ cách mạng Việt Nam, chưa từng tham gia Đảng Cộng sản nên không
liên quan gì đến Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Qua quá trình điều tra, chỉ thấy bằng chứng xác minh ông ta là
phần tử Đệ tam quốc tế.
3 - Trương Phát Khuê có ấn
tượng khá tốt về Hồ Chí Minh, cho rằng, theo ngôn ngữ văn tự mà suy đoán, đối với
"Chủ nghĩa Tam dân" Hồ Chí Minh, chẳng những hiểu rất rõ về chính
sách kháng Nhật, mà còn là người có tư duy sâu sắc, thái độ ôn hòa, rất xứng
dáng là đại biểu của đất nước với hơn 20 triệu dân.
Theo phần trích dẫn
trên, thời gian Hồ Chí Minh bị giam giữ ở Quân ủy hội Quế Lâm và Ban chính trị
Đệ tứ chiến khu Liễu Châu, đều không coi Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Đảng Cộng
sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng chưa nói Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái
Quốc. Bản thân Hồ Chí Minh cũng chưa từng thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Như
vậy, trong sự việc này tồn tại rất nhiều nghi vấn. Lúc ấy Trung cộng và Quốc tế
cộng sản đang hợp tác với Quốc dân đảng chống Nhật, Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo Việt
Minh cũng là đối tượng để Quốc dân đảng tranh thủ cho kế hoạch "Hoa quân
nhập Việt".
Hồ Chí Minh chỉ thừa nhận
mình là Nguyễn Ái Quốc sau khi được phóng thích, vậy vì sao phải tổn hao tâm
trí thông qua "Phân hội quốc tế chống xâm lược" ở Việt Nam, thông tấn
xã Nga Xô TASS và Chu Ân Lai giải cứu? Sự việc bỏ đường tắt, phù phép đi đường
vòng để giải cứu Hồ Chí Minh làm cho người ta cảm thấy phí công suy nghĩ.
Vì sao Hồ Chí Minh không
thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc
Hồ Chí Minh ở Mạc Tư Khoa bắt đầu từ năm 1934, do áp
lực của Quốc tế cộng sản phải sắm vai Nguyễn Ái Quốc. Trước ngày 6 tháng sáu
năm 1941 không lâu, ông ta lại ký
tên Nguyễn Ái Quốc trong bài báo "Thư hiệu triệu gửi đồng bào toàn quốc Việt
Nam". Thế nhưng, vào
ngày 27 tháng tám năm 1942, bị quân cảnh Quốc dân đảng bắt giữ điều tra, Hồ Chí
Minh vẫn không dám nhận tên mình là Nguyễn Ái Quốc, việc này rốt cuộc vì sao?
Tôi phải suy nghĩ rất
lâu mới phát hiện ra trò trí trá quỷ thuật trong thời gian này. Nguyên lai,
quân Quốc dân đảng bắt giữ Hồ Chí Minh lúc đầu không biết ông là người có lai lịch
phức tạp cho dù các giấy tờ tùy thân đều đã quá hạn sử dụng. Tuy nhiên, công an
huyện Đức Bảo, Quảng Tây lại nghi ngờ Hồ Chí Minh là gián điệp, tên thực là Hồ
Quang, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã từng tham gia lớp huấn luyện cán
bộ du kích Nam Hành Sơn. Ký giả Hoa Kỳ Andew Roth, vào năm 1948, trong cuốn
sách "Nước Việt Nam mới", trang 89, đã viết rất rõ: "Hồ Chí Minh
lấy Trung Quốc làm cơ sở, sau mười năm hoạt động, đột nhiên vào năm 1943, bị
nghi ngờ là gián điệp Nhật nên bị nhà đương cục Trung Quốc bắt giữ". Cho
nên, để điều tra lại lịch, ông ta bị chuyển đến Ủy viên quân sự hội Quế lâm của
chính phủ Tưởng Giới Thạch. Lại căn cứ vào bản báo cáo điều tra về Cộng sản Việt
Nam của chính quyền Quốc dân đảng năm 1941, thì: "Nhận định là Việt cộng
và Trung cộng đã hợp thành một tổ chức", đồng thời có biểu hiện lợi dụng
quân đội Nhật để chống lại Quốc dân đảng, nhân đó tạo thành sự kiện "Hoãn
Nam Tân tứ quân".
Những nhân tố trên mới
là nguyên nhân chủ yếu bắt giữ Hồ Chí Minh. Nhân đó, trong thời gian bị thẩm vấn,
Hồ Chí Minh không dám thừa nhận mình là Hồ Quang, càng không dám thừa nhận bản
thân từng bị bắt ở Quảng Châu. Lúc ấy, Hồ Chí Minh rất sợ bị mất đầu bởi các
tin đăng tải trên "Nhật nhật tân báo" liên quan đến sự kiện
"Gián điệp Nhật Bản".
(Tác giả nhận định: Lúc ấy,
Thượng Hải, Quảng Châu thuộc khu vực Nhật Bản chiếm đóng, đều phát hành tờ
"Nhật nhật tân báo"). Đương nhiên Hồ Chí Minh không dám thừa nhận
mình là Hồ Quang, sợ bị Trung cộng nghi ngờ, cũng không dám thừa nhận là Hồ Tập
Chương, sợ liên lụy đến tội danh gián điệp Nhật. Lúc này, tự nhận là Nguyễn Ái
Quốc, tuy cũng chẳng phải là thượng sách nhưng có thể tránh được sự nguy hiểm một
khi chính quyền Quốc dân đảng muốn lật lại bản án, tránh phải tái nhập nhà tù.
Mặt khác, Hồ Chí Minh lại không dám công nhiên thừa nhận là Nguyễn Ái Quốc, mà
chỉ lén lút tung tin vỉa hè, kệ cho thiên hạ loan truyền như một tin đồn, bởi
vì, ông rất lo, nếu tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, đến một ngày nào đó, lai lịch
bất minh bị tố giác, chân tướng sẽ bị vạch trần. Thời gian từ năm 1924 đến
1927, nhân sự kiện hoạt động của nóm "Tân tâm xã" ở Quảng Châu, Nguyễn
Ái Quốc và Nguyễn Hải Thần từng
là bạn bè tâm đầu ý hợp. Một câu nói, một việc làm của Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Hải
Thần đều hiểu rõ ràng. Trước mắt, Nguyễn Hải Thần đang là khách của Đệ tứ chiến
khu, nếu Hồ Chí Minh thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc , gặp nhau mặt đối mặt,
nhất định Nguyễn Hải Thần sẽ vạch trần tại chỗ Hồ Chí Minh ngụy trang thân phận.
Cuối năm 1934, Trương
Phát Khuê chỉ đạo ban tổ chức trù bị Đại hội đại biểu toàn quốc "Việt Nam
cách mạng đồng minh hội". Ông ta đề nghị Hồ Chí Minh giữ chức Phó chủ tịch,
mà Chủ tịch lúc ấy là Nguyễn Hải Thần. Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần, vì thế,
hợp tác làm việc với nhau một thời gian tại Liễu Châu. Có một ngày, Chủ nhiệm
Ban chính trị Hầu Chí Minh mở tiệc chiêu đãi. Nguyễn Hải Thần, Hoàng Văn Hoan,
Lê Hồng Sơn, Hồ Chí Minh được mời dự. Trong tiệc, Nguyễn Hải Thần cao hứng xuất
một vế đối: "Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai
minh"(Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, hai người dồng chí, chí đều sáng). Đọc
xong, ông hỏi: "Vị nào có thể đối được?" Vào lúc mọi người còn đang
tìm câu chữ chưa biết làm thế nào cho chỉnh thì Hồ Chí Minh thong thả đọc ngay
vế sau: " Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất
cách"(Ngài cách mạng, tôi cách mạng, mọi người cách mạng, việc tất thành).
Nghe xong, Hầu Chí Minh luôn miệng tán thưởng: "Đôii giỏi quá! Đối giỏi
quá!". Nguyễn Hải Thần cũng tâng bốc: "Hồ tiên sinh có tài suy nghĩ mẫn
tiệp, bội phục, bội phục!". Với Nguyễn Ái Quốc trước đây là chiến hữu thân
mật, nay gọi Hồ Chí Minh là "Hồ tiên sinh", đủ để chứng minh, Nguyễn
Hải Thần biết rõ Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh.
Cố nhiên, lúc ấy Hồ Chí Minh đang ở Liễu Châu, làm sao dám nhận mình là Nguyễn
Ái Quốc.
Tháng mười năm 1944,
Trung ương Quốc dân đảng, sau khi Hồ Chí Minh trở về Việt Nam mới biết ông ta
là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Việt cộng và Việt Minh. Trương Phát khuê được biết
sớm hơn vào đầu năm 1943 khi mà Hồ Chí Minh bị chuyển giao cho Ban chính trị Đệ
tứ chiến khu thẩm tra.
Trung cộng và Việt cộng
đều không công khai thừa nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc nhưng lại lén lút để
bí mật này lọt ra ngoài bằng con đương truyền miệng. Đây chính là thủ đoạn hai
mặt, một mặt yêu cầu Hồ Chí Minh không thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc , nhưng
mặt khác lại thông qua những đảng viên cộng sản như Hoàng Quốc Việt tán phát bí
mật Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Thời kỳ ẩn mình làm việc dưới trướng của
Trương Phát Khuê, hoạt động của những người cộng sản là rất rõ ràng. Ví như, Bí
thư Trung cộng Tả Hồng Đào phục vụ trong chi đội đặc biệt của Tập đoàn quân thứ
8, thời kỳ năm 1941, thư ký cơ yếu của Trương Phát Khuê biết tin Hồ Chí Minh bị
chuyển từ Quế Lâm đến Ban chính trị Đệ tứ chiến khu, lập tức liên lạc với những
người thân tín của Trương Phát Khuê là Ngô Trọng Hy, Cao Nhược Ngu, Trương Lệ,
Hoàng Trung Cẩn... truyền đạt tin tức can ngăn: Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, khuyên can
Trương Phát Khuê hủy bỏ lệnh giam lỏng ông ta để "tỷ dư nhiệm vụ"
(dùng vào việc sau này).
Không lâu sau, Chủ nhiệm
Ban chính trị Hầu Chí Minh đi họp từ Trùng Khánh về, thực hiện lệnh phóng thích
Hồ Chí Minh. Trương Phát Khuê tự mình đưa Hồ Chí Minh đến ở tại "Bân
Lư" trên đường Diêu Phụ, coi như thượng khách.
Đoạn văn trên là do
Vương Tâm Đồng viết trong "Truyện Trương Phát Khuê", chương 17, trang
215 và "Ghi chép về Tả Hồng Đào mười năm trong hang hổ"
Lai lịch Hồ Chí Minh vì
sao không bị vạch trần?
Quá trình chuyển hóa
thân phận từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn không phải mọi việc đều
thuận lợi trong một sớm một chiều. Đó là cả một công việc diễn ra lâu dài, bền
bỉ với không ít người tham gia thúc đẩy mới đạt thành hiệu ứng của màn hý kịch.
Xét về mặt thời gian, sau khi Nguyễn Ái Quốc bị bệnh lao phổi chết vào mùa thu
năm 1932, chẳng phải đã có ngay kế hoạch "mượn xác hoàn hồn" hay
"dời hoa tiếp cây".
Năm 1934, Hồ Tập Chương
đến Mạc Tư Khoa với bí danh
P.C.Lin, sau khi chịu sự điều tra của tổ chuyên án ba người, Quốc tế cộng sản mới
bắt đầu đề nghị Hồ Tập Chương
thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc, lấy tư cách đại biểuQuốc tế cộng sản tiến hành hoạt động giành độc lập cho
Việt Nam. Khoảng thời gian ấy, sự việc luôn ở trong tình trạng mập mờ, bán tín
bán nghi, cho đến tháng sáu năm 1957, khi về thăm quê hương Kim Liên, Nam Đàn,
Nghệ An, Hồ Chí Minh mới chính thức công khai thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc.
Thời gian này, song thân Nguyễn Ái Quốc đã qua đời từ lâu, một người anh là
Nguyễn Sinh Khiêm mất vào năm 1950 và người chị là Nguyễn Thị Thanh cũng mất
vào năm 1954. Ông Khiêm và bà Thanh, năm 1945 cũng đã ra Hà Nội gặp Hồ Chí
Minh, vội vàng nói chuyện về thời thơ ấu rồi lại trở về quê. Vậy tình hình lúc
gặp mặt ra sao, Nói những chuyện gì, trước sau vẫn còn là một bí mật. Vì thế,
vào năm 1957, khi Hồ Chí Minh về thăm quê hương Nguyễn Ái Quốc, những người
trong làng, có thể nói, không một ai phát hiện ra vị Chủ tịch nước Việt Nam
không phải là Nguyễn Ái Quốc. Huống hồ, các phe cánh đối lập như Nguyễn Hải Thần,
Vũ Hồng Khanh cũng lưu lạc ở Trung Quốc Đại lục, chết vì bệnh tật chốn tha
hương. Hồ Chí Minh đến lúc này với vượt qua các trở ngại, hoàn thành kế hoạch
"dời hoa tiếp cây", thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc do Quốc
tế cộng sản sắp đặt.
Công bằng mà nói, Hồ Chí
Minh hoàn thành nhiệm vụ "dời hoa tiếp cây" tuyệt đối không phải do
năng lực cá nhân. Màn ký kịch này là sự hợp tác diễn xuất tuyệt vời của những
nhân vật chóp bu Đảng Cộng sản Việt Nam mà đạo diễn chính là Vera Vasilieva, phụ
trách thiết kế quy hoạch, trong đó, diễn viên chính là Hồ Chí Minh, chịu trách
nhiệm biên tập kịch bản và thượng đài diễn xuất. Phối hợp diễn xuất là các lãnh
đạo cao cấp như Lê Hồng Phong, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên,
Hoàng Văn Hoan, Nguyên Lương Bằng cùng với lãnh đạo cao cấp Đảng Cộng sản Trung
Quốc Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu, Lý Phú Xuân, Thái Sướng, Khang Sinh, Lý Khắc
Nông..., phụ trách yểm hộ, bao che lai lịch Hồ Chí Minh. Họ giấu kỹ lai lịch
cùng những chứng cứ liên quan đến Hồ Chí Minh. Họ dùng các phương thức yểm hộ
khác nhau rối ren như tơ nhện để ngụy tạo thông tin, khiến cho nhất thời có người
tỏ ra hoài nghi, thì bất quá cũng như một cánh hoa trôi giạt trên biển lớn, chỉ
cần một đợt sóng trào là mất hút, không để lại dấu vết.
Năm 1945, vị hoàng đế cuối
cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại đã từng nói: "Chỉ cần chứng minh được Hồ
Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc tôi sẽ lập tức thoái vị". Không lâu sau, Bảo Đại
thoái vị thật, có thể thấy, giới lãnh đạo Việt Nam che đậy lai lịch Hồ Chí Minh
đặc biệt thành công. Một lần nưa, tôi nhấn mạnh, Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh
lao phổi vào mùa thu năm 1932, năm 1942 mới thấy tên tuổi Hồ Chí Minh xuất hiện.
Như vậy, từ trước năm 1932, người ta rất quen biết Nguyễn Ái Quốc, sau năm
1933, người ta không quen biết Hồ Chí Minh, vậy, theo lý mà nói, Nguyễn Ái Quốc
không phải là Hồ Chí Minh, chỉ có điều, vì sao Nguyễn Ái Quốc có mối quan hệ đặc
biệt thân thiết với một lãnh đạo nổi tiếng của Đảng Cộng sản Pháp là Paul Vaillant Couturier và vị luật sư
Anh Quốc Frank Loseby đã từng tham gia giải cứu Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi nhà
tù Hương Cảng, đều chưa từng đề cập
đến những nghi vấn về thân phận Hồ Chí Minh? Hồ Chí Minh và những người cộng sản
đã dùng những cách gì mà lừa bịp thành công? Chỉ xin dẫn ra trường hợp Paul Vaillant Couturiervà Frank Loseby làm ví dụ. Vậy thì làm thế
nào Hồ Chí Minh và những đồng chí của ông ngụy tạo cố sự để che mắt người nước
ngoài, khiến họ tin rằng Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc? tôi xin lấy một tiêu đề
trong thiên này là "Những năm tháng phiêu bạt" để làm lời kết.
Hồ Chí Minh ngụy tạo sự
kiện Nguyễn Ái Quốc sống lại
Paul Vaillant Couturier
là chuyên gia nước Pháp về "Chủ nghĩa xã hội", từng là Ủy viên Trung
ương Đảng Cộng sản Pháp, chủ bút tờ báo "Nhân đạo". Tháng chín năm
1933, Paul Vaillant Couturier đã đến Thượng
Hải tham gia "Hội nghị thế giới phản đối chiến tranh đế quốc".
Tháng mười hai năm 1920,
Nguyễn Ái Quốc có tham gia
"Hội nghị Tour" của Đảng Xã hội Pháp, sau khi Đảng Xã hội bị phân liệt,
đã quen biết Marcel Gabriel và Paul
Vaillant Couturier là thành đảng
viên cộng sản. Dưới sự chỉ đạo của Marcel Gabriel và Paul Vaillant Couturier, Nguyễn Ái Quốc
tích cực hoạt động tuyên truyền phản đỗi chủ nghĩa thực dân, trở thành chuyên
gia nghiên cứu về vấn đề thực dân của Đảng Cộng sản Pháp.
Hồ Chí Minh (Hồ Tập
Chương), từ đầu đến cuối, chưa bao giờ quen biết Marcel Gabriel và Paul Vaillant Couturier. Mùa thu năm
1937, Paul Vaillant Couturier qua đời, lúc ấy Hồ Tập Chương đang ở Mạc
Tư Khoa, bí danh P.C.Lin, chấp
hành chỉ thị của Quốc tế cộng sản, lấy danh nghĩa Nguyễn Ái Quốc, viết một bức
thư bằng tiếng Pháp gửi tới Marcel Gabriel tỏ lòng thương tiếc và chia buồn về
việc Paul Vaillant Couturier qua đời. Nói cách khác, Hồ Chí Minh sau khi Paul
Vaillant Couturier chết mới mượn mối quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc và Paul
Vaillant Couturier để liên kết Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh thành một người, dụng
ý che mắt thế gian, tái hiện hình ảnh Nguyễn Ái Quốc vẫn sống trên đời.
Trần Đạt Nhân, vào năm
1963, trong cuốn sách "Vừa đi đường vừa kể chuyện", và Nguyễn Lương Bằng
năm 1965, trong cuốn sách "Tôi đã mấy lần được gặp Bác Hồ" đều nhắc đến
sự kiện năm 1933 Paul Vaillant Couturier đến Thượng
Hải, đồng thời gộp Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh làm một, ngụy tạo sự kiện Paul Vaillant Couturier gặp Nguyễn Ái Quốc ở Thượng Hải để tạo
điều kiện thuận lợi cho Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa. Thời điểm những cuốn sách
này xuất bản, Nguyễn Ái Quốc đã qua đời gần ba mươi năm, Paul Vaillant Couturier cũng đã mất hai mươi sáu năm. Trần Đạt Nhân là bút danh của Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng là Phó chủ tịch nước Việt Nam, hai người
đều đồng lòng, nhất trí chế tạo Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc mà không bị lật
tẩy bởi nhân chứng đã chết, Hồ Chí Minh vẫn đường đường chính chính tiếp tục sắm
vai Nguyễn Ái Quốc.
Ngày 6 tháng sáu năm
1931, Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Hương Cảng bắt giữ, luật sư Frank Loseby nhận lời biện hộ. Sau chín phiên xử,
Nguyễn Ái Quốc được phóng thích. Vợ chồng Frank
Loseby cũng có mặt trong buổi tiễn
đưa Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng. Mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc mắc bệnh
lao phổi sau đó qua đời. Tất nhiên, luật sưFrank Loseby cũng biết tin này qua báo chí. Năm
1956, trong đoàn ký giả Anh Quốc thăm Việt Nam, có một thành viên là đảng viên
Cộng sản Anh. Hồ Chí Minh có cuộc gặp gỡ riêng với ký giả cộng sản này, sau khi
được biết ông ta sẽ đến Hương Cảng nên có viết bức thư gửi luật sư Frank Loseby. Không lâu sau, Hồ Chí
Minh lại gửi hai tấm ảnh chân dung kèm theo bức tranh thêu "Chùa Một cột"
và bức tranh sơn mài tặng vợ chồng luật sư, đồng thời mời hai ông bà thăm Việt
Nam.
Mùa xuân năm 1960, tại
trụ sở tiếp khách Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh đón tiếp vợ chồng luật sư Frank
Loseby và ái nữ của họ là tiểu thư Patricia.
Lúc ấy vợ chồng Loseby dã gần 80, Patricia cũng đã 30, mới gặp Hồ Chí Minh lần
đầu, trong khi Nguyễn Ái Quốc đã qua đời 28 năm. Luật sư nói: "Từ sau năm
1933, tôi có nhận được của Nguyễn Ái Quốc một bức thư đề nghị gửi ảnh cùng địa
chỉ, nhưng trong lòng tôi nghi hoặc, chỉ sợ đây là trò chơi "bịt mắt bắt
dê" của cảnh sát nên không dám trả lời. Không lâu. lại nhận được bức thứ
hai, nội dung giống như bức thứ nhất, tôi vẫn giữ cẩn thận, để nhớ lại hình ảnh
Nguyễn Ái Quốc đã qua đời". Luật sư giải thích nguyên nhân không liên lạc
với Nguyễn Ái Quốc là do không biết Nguyễn Ái Quốc chính là Hồ Chủ Tịch. Sau
này vợ chồng Frank Loseby còn mấy lần được mời tham dự hội thảo tại Viện bảo
tàng Cách mạng Việt Nam, băng ghi âm lời phát biểu của ông và những tư liệu quý
do ông tặng vẫn được lưu giữ. Luật sư Loseby còn căn cứ theo kiểu dáng quần áo
Nguyễn Ái Quốc từng mặc năm 1931, đã dùng vải bông gai may một chiếc áo khoác
dài gửi tặng Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Năm 1967, Frank Loseby qua đời, Hồ
Chí Minh gửi một vòng hoa đặc biệt đặt bên linh cữu ân nhân với dòng chữ:
"Hồ Chí Minh đau xót tưởng nhớ luật sư Frank Loseby".
Trở lên trên là những
ghi chép có liên quan đến Hồ Chí Minh và luật sư Frank Loseby được dẫn từ
"Hồ Chí Minh, cha già dân tộc Việt Nam" của cựu Đại sứ Lý Gia Trung,
từ trang 226 đến 228, Nguyễn Việt Hồng chuyển dịch, in trong chuyên mục "Hồ
sơ Hương Cảng năm 1931". Từ
những lời kể trên, vợ chồng Frank
Loseby đã biết rõ Nguyễn Ái Quốc
chết vào mùa thu năm 1932, vậy mà đến sau năm 1933 lại nhận được thư của Nguyễn
Ái Quốc, vì thế ông cho là cảnh sát chơi trò "bịt mắt bắt dê", không
dám trả lời. Đến năm 1956, một ký giả cộng sản Anh Quốc chuyển tới Frank Loseby bức thư của Hồ Chí Minh, sau này lại gửi
tặng ảnh chân dung, tranh thêu, tranh sơn mài cùng với lời mời thăm Việt Nam,
thậm chí còn cử người đại diện mậu dịch ở Hương Cảng là Nguyễn Văn Phối và Đỗ
Xuân Phong đến thăm gia dình luật sư.
Tác giả không thể biết nội
dung bức thư Hồ Chí Minh nói những gì, chỉ căn cứ vào những động tác liên hoàn
từ năm 1956, có thể phỏng đoán, Hồ Chí Minh có ý ngầm thông báo cho vợ chồng luật
sư Loseby biết là, Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, tin tức đăng trên các
báo về sự kiện Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi chỉ là tin tức giả. Lật lại
vấn đề, nếu như Nguyễn Ái Quốc không chết, chân thành báo đáp ơn cứu mạng, vì
sao đến mãi năm 1956 mới ba lần liên lạc với vợ chồng luật sư Frank Loseby, năm 1960 mới chính thức
nời thăm? Thời gian kéo dài những 20 năm, lẽ nào Nguyễn Ái Quốc không có cơ hội
đến Hương Cảng cảm tạ ân nhân? Lại
vì sao 28 năm sau, khi mà vợ chồng luật sư đã gần 80 mới mời đến Việt Nam gặp mặt?
Tác giả nhận thấy "Hồ Chí Minh có thể làm bất cứ việc gì để chờ đợi thời
cơ, sau đó chọn dịp thuận lợi nhất mới gặp mặt". Thử nghĩ, một ông già đã
xấp xỉ 80 tuổi, sau 28 năm bặt vô âm tín, đặc biệt là người Âu Mỹ nhìn người
phương Đông, liệu có khả năng phân biệt được thật giả? Hồ Chí Minh chơi trò bịp
bợm chẳng qua là để vợ chồng Losely ghi nhớ "Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc" mà thôi. Hơn
thế nữa, Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam lại còn mời vợ chồng Frank Loseby tham dự hội thảo, lưu lại các tài liệu
liên quan và băng ghi âm lời phát biểu cùng chiếc áo khoác vải bông kiểu dáng
năm 1931, làm cho khắp nơi nơi đều hiểu rõ mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với luật
sư Loseby chính là bằng chứng tuyệt vời khẳng định Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc.
THIÊN IV
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình
ái
Hồ sơ hôn nhân Hồ Chí Minh
T
|
rong bài “Nguyễn Ái Quốc chết
rồi sống lại”, tôi đã nhấn mạnh, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn
Ái Quốcchết vì bệnh
lao phổi, người xuất hiện sau này tuyệt đối không phải Nguyễn
Ái Quốc mà chính là Hồ Tập Chương, làm nhiều chuyên gia
nghiên cứu về Hồ Chí Minh đặt câu hỏi nghi ngờ. Trong quá trình viết cuốn sách
này, tôi đã tham khảo không chỉ một vài tài liệu mà thực chất đã tiếp cận hàng
đống hồ sơ, do đó đã phát hiện ra những điều bất hợp lý thậm chí mâu thuẫn nhau
trong cuộc đời nhân vật lịch sử này. Vấn đề quan trọng nhất là cần phải khách
quan và trung thực trên cơ sở những chứng cứ khoa học, đồng thời hết sức tránh
thái độ cực đoan do thành kiến, nhằm loại trừ những sai lầm để tìm ra sự thật.
Nghiên cứu hồ sơ hôn nhân,
tình ái của Hồ Chí Minhchính là để
làm sáng tỏ Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn
Ái Quốc,Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh , người này không thể là người kia và
ngược lại. Hôn nhân , tình ái của Nguyễn
Ái Quốc cần được phân biệt giữa
Breiere, Tăng Tuyết Minh với Nguyễn Thị Minh Khai. Hôn nhân tình ái của Hồ Chí Minh cũng phải được phân biệt giữa
Lâm Y Lan, Đỗ Thị Lạc và Nông Thị Xuân. Một số cuộc hôn nhân , tình ái này đã
được đề cập rải rác trong “Truyện Hồ Chí Minh” của Willam J.Duiker và “Những
năm tháng Hồ Chí Minh mất tích, 1919 - 1941” của Sophie Quinn – Judge, quyển 2,
nguyệt san “Vũ Hán văn sử tư liệu” (Đại lục) với bài “Hồ Chí Minh và người vợ
Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, nguyệt san “Nhân dân văn trích” (Đại lục) có bài “
Mối tình sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”. Về phía Việt Nam có tác phẩm
“Chị Minh Khai” của nhà văn Nguyệt Tú, “Việt duệ Hoa nhân Lĩnh Nam di dân”
chuyên san có bài “ Thê thiếp và tình nhân của Hồ Chí Minh”. Nói chung, các tác
phẩm trên đều có những phát hiện và trình bày, phân tích về tình trạng hôn
nhân, tình ái của HCM tương đối đúng sự thực. Tuy nhiên, về phía nhà nước Việt Nam, những người lãnh đạo cao cấp
đều ra sức phản bác, cũng như lúc sinh thời, Hồ
Chí Minhchưa bao giờ thừa nhận mình từng có vợ có con. Họ coi Hồ Chí Minh là thần thánh, biểu tượng tối
cao của sự nghiệp cách mạng, nên sẵn sàng nhắm mắt, bịt tai trước sự thật lịch
sử. Hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hiện thực khách quan, được bạch
hóa tại nhiều hồ sơ lưu trữ,
không thể xóa bỏ được vết hằn lịch sử.
Từ sau năm 1933 cho đến lúc
qua đời, Hồ Chí Minhkhông bao giờ
thừa nhận các quan hệ hôn nhân, gia đình, nhưng trước năm 1933, tình trạng hôn
nhân của Nguyễn Ái Quốc lại được công khai rõ ràng. Nhà nước Cộng sản Việt Nam cường điệu
chuyện Hồ Chí Minh vì sự nghiệp độc lập giải phóng
dân tộc mà hy sinh tình cảm cá nhân, bởi vì họ không muốn và cũng không dám đối mặt
với một sự thật chết người, ấy
là Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minh không phải là một. Không còn cách nào khác, các nhà lãnh
đạo cao cấp, thông qua bộ máy tuyên truyền, đã lợi dụng những chuyện cường điệu,
bịa đặt về thứ tình yêu “đồng chí cộng sản” để nấp sau tấm màn nhung, điều khiển
vở hài kịch “tráo rồng đổi phượng”,
“dời hoa tiếp cây”.
Chuyện hoang đường về đạo đức thánh
nhân
Trong nhận thức của một số người,
ấn tượng phổ biến về việc ông Hồ
Chí Minh không có vợ con là bởi sự
nghiệp cách mạng, vì độc lập dân tộc nên đã hy sinh hạnh phúc gia đình. Đại sứ
Trung Quốc Lý Gia Trung đã viết trên tờ “Thế giới tân văn” ngày 11 tháng bảy năm
2005 như sau : “ Hồ Chí Minh vì sự nghiệp cách mạng chấp nhận sống độc thân,
không xây dựng gia đình, không vợ không con. Trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, vào những năm năm mươi, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã từng có ý sắp đặt một nữ tthanh
niên ưu tú bên cạnh Bác để giúp đỡ Người trong công tác cũng như sinh hoạt. Thế
nhưng, khi người phụ nữ ấy được đưa đến, Hồ Chí Minh lại bảo : “Bác ở đây không
có việc gì, cháu hãy về cơ quan công tác cho tốt”. Có lần Hồ Chí Minh tâm sự với các nhân viên phục vụ về
nguyên nhân mình không xây dựng gia đình : “ Thời trẻ, Bác bôn ba nước ngoài,
đi đến đâu cũng được phụ nữ để ý, chỉ hiềm lúc ấy Bác đang họat động bí mật, sẽ
có ngày trở về nước làm cách mạng, một khi thành gia thất thì rất khó bảo vệ được
bí mật”. Lý Đại sứ viết tiếp : “ Hồ Chí Minh vì tự do độc lập của nhân dân mà dấn
thân cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ, không màng đến sự sống chết và hạnh
phúc cá nhân, cho nên chấp nhận suốt đời sống độc thân”. Việc không có vợ con của
Hồ Chí Minh có đúng như Lý Gia Trung nhận định là chỉ vì nền độc lập dân tộc
hay là còn có lý do khác quan trọng hơn mà họ cố ý giấu nhẹm sự thật, tạo ra
chung quanh một vòng hào quang để biến ông thành vị thánh sống?
Căn cứ vào những hồ sơ từ thời
thực dân Anh Pháp để lại, mới được giải mật gần đây, thì Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh đã có thời kỳ hôn nhân
tốt đẹp, đồng thời cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn trong các mối quan hệ. Tuy
nhiên, nhà nước cộng sản Liên Xô Trung
Quốc và Việt Nam cho đến nay chẳng những không chịu thừa
nhận thực trạng hôn nhân của Hồ Chí Minh mà còn cố ý làm sai lệch các hồ sơ
trên. Họ làm vậy mới mục đích gì? Lần lượt phân tích các hồ sơ qua nội dung đã
được bạch hóa, có thể suy đoán, Nga cộng, Trung cộng, Việt cộng, không dám công
bố sự thật hôn nhân Hồ Chí Minh là bởi họ đã hiểu Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác
nhau. Một khi các chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh công bố trước thế giới sự
thật này thì thân phận Hồ Chí Minh sẽ trở thành một “song bào án”, hình tượng Hồ Chí Minh bỗng chốc sụp đổ, làm gì còn đủ tư
cách "Cha già dân tộc"!
Những năm ấy Quốc tế cộng sản phải
khó khăn lắm mới tạo ra được vở kịch “mượn xác hoàn hồn” với kế hoạch cài cắm một
phái viên của mình vào Việt
Nam nhằm thực hiện mục đích “nhuộm
đỏ” khu vực Đông Nam Á, nay có nguy cơ bị vạch trần nên tất yếu họ tìm mọi cách
bưng bít.
Vào những năm đầu thế kỷ XXI
(năm 2000), sự thực về hôn nhân, tình ái của Hồ Chí Minh còn được Sophie Quinn-
Judge trong “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích 1919 -1941”, quyển I, ở phần mở đầu,
giới thiệu tóm tắt đã viết : “ Hồ Chí Minh không phải là hòa thượng độc thân,
qua thẩm xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, ông ta từng có quan hệ chính thức với hai
người phụ nữ”. Phần tổng kết, tác giả nhắc lại : “ Hồ Chí Minh tuyệt đối không
phải là một vị thánh của Chủ nghĩa cộng sản chỉ vì ông ta không có cơ hội chung
sống cùng phụ nữ mà thôi”. Một tác giả người Việt là nhà nghiên cứu Trần Gia Phụng
trong tác phẩm “ Ông Hồ có bao nhiêu vợ?”, đã viết :“ Hồ Chí Minh cũng chỉ là một
người bình thường. Ông đã từng trải qua mấy cuộc hôn nhân, có vợ có con, thậm
chí có đến mấy bà vợ cùng nhân tình”. Trong xã hội Việt Namnăm sáu mươi năm về trước, đây
là hiện tượng cực kỳ phổ biến. Chỉ có điều, đã trót suy tôn ông ta là “nhà
chính trị kiệt xuất”, “Cha già dân tộc”, “biểu tượng của cách mạng Việt Nam” nên bắt buộc phải giấu biệt
các mối quan hệ hôn nhân, tình ái, vô hình chung Cộng sản Việt Nam đã biến ông
Hồ thành kẻ phụ tình, bất nghĩa, thoái thác trách nhiệm làm chồng làm cha, một
lẽ thường của đạo nhân luân.
Cầu trả về cầu đường trả về đường
Qua những sự thực lịch sử về
tình trạng hôn nhân của Hồ Chí Minh , cẩn thận xem xét, kiểm nghiệm kết hợp với
so sánh, đối chứng, ta có thể thấy rõ, Nguyễn
Ái Quốc và Hồ Chí Minh có những
quan hệ hôn nhân, tình ái vào các thời kỳ khác nhau. Nếu đem hai người có tình
trạng hôn nhân ở hai thời kỳ khác nhau gộp lại cho một người rồi đồng nhất cùng
một thời gian thì chẳng khác gì câu chuyện dân gian “râu ông nọ cắm cằm bà
kia”, làm biến dạng bản chất sự việc. Muốn làm rõ việc này cần phải lấy năm
1932 làm mốc phân ranh giới giữaNguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh. Trước năm 1932, thuộc
hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái
Quốc với Breiere, Tăng Tuyết
Minh và Nguyễn Thị Minh Khai.Từ năm 1933 về sau, thuộc hôn nhân tình ái của Hồ
Chí Minh với Lâm Y Lan, Đỗ Thị Lạc và Nông Thị Xuân. Đem Nguyễn Ái Quốc ghép với Hồ Chí Minh là không thể. Để
loại trừ những kết luận chủ quan, sai lầm, cần phải đối chiếu thời gian, tìm hiểu
các mối quan hệ, phân tích dữ liệu một cách cẩn trọng trong đống hồ sơ lưu trữ về Hồ Chí
Minh để trả lại sự minh bạch cho lịch sử như tục ngữ của người Trung Quốc là “ cầu trả về cầu, đường trả về đường”.
Xin độc giả tham khảo những tư liệu sau đây:
1 – Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc ở trọ tại biệt thự Goblinthủ đô Paris nước Pháp, làm quen
với một thiếu nữ người Pháp là cô Briere. Cảnh sát xác nhận cô này là tình nhân
củaNguyễn Ái Quốc .
2 – Năm 1925, tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc quen biết một thiếu nữ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh, năm 1926 hai người
kết hôn. Sau khi kết hôn hai người ở trong biệt thự của Mikhail Brodin.
3 – Năm 1930, tại Hương Cảng, Nguyễn Ái Quốc mang theo từ Việt Nam một người đồng hương đồng thời là người
yêu của ông ta tên Nguyễn Thị Minh Khai. Mùa xuân năm 1931, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai cử hành hôn lễ
đơn giản tại nhà khách qua
sự chứng kiến của các đồng chí đến từ Sài
Gòn và Đông Kinh.
4 – Năm 1935, Mạc Tư Khoa triệu tập Hội
nghị lần thứVII Quốc tế cộng sản.
Thời gian này Nguyễn Ái Quốc bị bệnh đã qua đời, Nguyễn Thị Minh
Khai với tư cách là vợ củaNguyễn Ái Quốc ,
khi đến Mạc Tư Khoa, ghi trong tờ khai là đã kết hôn với một người đồng chí có
tên P.C. Lin. Hội nghị kết thúc, Nguyễn Thị Minh Khai ở lại Liên Xô, đến phòng
đăng ký giá thú làm thủ tục kết hôn với Lê Hồng Phong, là người lãnh đạo mới của
Đảng Cộng sản Đông Dương.
5- Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh
trở lại căn cứ địa cách mạng Việt
Bắc. Trong số 18 cán bộ nòng cốt theo về Việt
Namcó một phụ nữ là Đỗ Thị Lạc, mọi
người quen gọi “chị Thuận”. Tại Cao Bằng, Hồ Chí Minh và Đỗ
Thị Lạc sống chung với nhau một
thời gian.
6 – Năm 1955, một thiếu nữ
xinh đẹp người Nùng,quê Hòa An, Cao Bằng là Nông Thị Xuân được cử làm y tá bên
cạnh Hồ Chí Minh . Hai người sống chung với nhau gần một năm thì cô Xuân sinh hạ
một bé trai. Đứa bé lúc đầu gửi Hội Phụ nữ rồi Chu Văn Tấn chăm sóc, sau này
thư ký riêng của ông Hồ là Vũ Kỳ bí mật nhận làm con, nuôi dưỡng tại nhà mình.
7 – Năm 1965, nhân việc Đào
Chú, một yếu nhân của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, đồng thời là bạn thân của Hồ Chí Minh viếng thăm Hà Nội, ông Hồ có nhờ
Đào Chú tìm giúp một phụ nữ từng quen biết thời trẻ ở Quảng Đông là Lâm Y Lan để
nối lại tình xưa nghĩa cũ. Họ Đào trở về Trung
Quốcbáo cáo việc này với Tổng lý Chu Ân Lai, tuy nhiên quan hệ ngoại giao hai
nước lúc ấy không còn mặn mà như trước vì cuộc “Đại cách mạng văn hóa” nên đề
nghị của ông Hồ tạm thời bị xếp lại.
Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc
với cô Breiere
Breiere và Bourdon
Breiere có phải là người tình
đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc hay không, việc này xác minh không
khó. Qua quá trình thẩm xét, các hồ sơ liên quan đến Nguyễn Ái Quốc đều cho thấy, Breiere đúng là người
tình đầu tiên của ông. Mối quan hệ
tình ái này, cả trong tác
phẩm của William J. Duiker và Nguyễn Thế Anh đều không được đề cập đến, bởi các
nhà nghiên cứu quan niệm, chuyện yêu đương thời kỳ đầu của Nguyễn thường là giả
tạo, thậm chí còn bị tô vẽ phóng đại với mục đích chính trị.
Người tình đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là một phụ nữ Pháp tên Breiere, chẳng
hiểu vô tình hay hữu ý đã bị lẫn lộn với mối tình của nữ chiến sĩ cách mạng
Nguyễn Thị Minh Khai. Việc làm này rõ ràng có ý đồ tạo ra một giả tượng đồng nhất
Hồ Chí Minh với Nguyễn Ái Quốc. Giáo sư Nguyễn Thế Anh
trong tác phẩm “Con đường chính trị của Hồ Chí Minh”, khẳng định người tình đầu
tiên của Nguyễn Ái Quốc là cô Bourdon, còn William J. Duiker
trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 76 lại ghi người tình đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là cô Bourdon Breiere. Có nhiều khả
năng, từ tiếng Pháp chuyển dịch sang tiếng Trung, danh xưng này bị phiên âm khác đi. Theo các tài liệu
lịch sử để lại, cô Breiere và cô Bourdon đều là người tình của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ đầu đến nước Pháp thực chất chỉ
là một người. William J. Duiker dẫn theo tài liệu thời kỳ đầu còn Nguyễn Thế
Anh dẫn theo tài liệu ở thời kỳ kết thúc của mối tình này nên mới có sự bất đồng.
Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc
Giáo sư Nguyễn Thế Anh trong
“Con đường chính trị của Hồ Chí
Minh ” có ghi chép về mối tình đầu
của HCM như sau : “ Năm 1923, HCM từng bị thất tình với một cô gái người Pháp
là Bourdon. Cô này đã trách móc Hồ vì việc Hồ tuyên bố với mọi người cô là vợ
mình. Từ một bức thư đề ngày 10 tháng 5 năm 1923, Hồ Chí Minh gửi cho Bourdon có thể biết được mối
quan hệ tình ái của họ trong thời gian ấy : “Nhận được thư của em làm anh vô
cùng sung sướng. Anh cũng gửi đến em lời cảm ơn về những tấm ảnh đẹp. Anh tạm gửi
lại em hai tấm, còn giữ lại ba
tấm, nếu có thời gian sẽ in tráng. Mong em cho phép anh in tráng hai bộ, một bộ
gửi em, một bộ anh giữ để làm kỷ niệm tình đồng chí của chúng ta”. Sau đó hai
người còn thư từ qua lại với nhau một thời gian nữa, hẹn sẽ có ngày gặp mặt. Có
khả năng, theo lá thư đề ngày 11 tháng 6 năm 1923 gửi cho Bourdon, Hồ Chí Minh viết : “ Vừa nhận được thư cô, xin cô
hãy giữ gìn các tấm ảnh, nhưng không cần thiết phải phóng đại số ảnh ấy. Đọc
thư, tôi rất sửng sốt, không sao hiểu được ý tứ của những lời nói ấy. Nếu cô
nghĩ rằng tôi làm việc ấy, xin mời cô hãy đến quán ăn, ta sẽ làm rõ sự thật”.
(Tác giả nhận định, thời gian ấy, Nguyễn
Ái Quốc làm việc tại một hiệu ảnh
, còn cô Bourdon có thể làm làm bồi bàn trong một nhà hàng). Trích dẫn từ một
lá thư do Cục Bảo an Pháp thu được, hiện bảo tồn tại Trung tâm hồ sơ Pháp quốc
hải ngoại (SLOTFOM), hàng thứ 2, hòm số 4), William J. Duiker trong “Truyện Hồ
Chí Minh”, chương 2, trang 76, viết : “ Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc quyết định gia nhậpĐảng Cộng sản Pháp, việc này đã tạo ra sự căng thẳng với
nhóm người cùng ngụ trong biệt thự Globin.
Họ xem Nguyễn là nhân vật cấp tiến và hành động của anh ta có mùi vị súng đạn.
Thời kỳ Hội nghị Versailles, Nguyễn
Ái Quốc có kể với người đồng
hương là Trần Tiến Nam về người bạn gái bất đồng quan điểm với mình vì cô cho rằng
anh ta có tư tưởng cực đoan. Cũng cuốn sách trên, trang 593 (chú giải số 49),
có ghi : “Căn cứ Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại của Trung tâm viễn chinh quân bảo hộ,
tủ thứ 36, ngày 27 tháng 12 năm 1920, Deveze viết như sau : “Người bạn gái là
Breiere, cảnh sát tin là nhân tình của Nguyễn Ái Quốc”.
Mối tình đầu giữa Nguyễn Ái Quốc và Breiere là tình yêu chân chính của
những người tuổi trẻ. Nó thường bị lợi dụng gắn kết với mối tình giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, cố ý gây lẫn
lộn, làm mối tình đầu thất
bại này mang phong vị lãng mạn, tạo ra một hình ảnh Hồ Chí Minhthánh nhân, đạo đức “ đất
nước chưa độc lập thống nhất , Hồ
Chí Minh không thể xây dựng gia
đình riêng”. Theo các đề mục ở phần sau của tác phẩm “ Hồ Chí Minh vì sao không lấy vợ?” và “Tình yêu vượt
qua Hồng Hà, truyện tình Hồ Chí Minh”, hai thiên này rất không đúng sự thực, chứng
tỏ vòng hào quang chung quanh Hồ
Chí Minh chỉ là thần thoại
giả tạo.
Nghi án ái tình giả tạo
HCM vì sao suốt đời không lấy
vợ?, tờ “Nhân dân nhật báo” Trung Quốc, bản hải ngoại (bản số 3, ngày 16 tháng
9 năm 2000), Hồ Văn Sinh viết : “Năm 20 tuổi Hồ
Chí Minh lên một chiếc tàu thủy đến
nước Pháp, bắt đầu tìm thấy chân lý ở chủ nghĩa Marx – Lenin. Trên đường đi,
ông làm quen với một cô gái xinh đẹp người Việt, dáng mảnh mai, tính tình nhu
thuận. Họ nhanh chóng có tình cảm với nhau. Khi Hồ Chí Minh tham gia “Phong trào vận động giải
phóng dân tộc Việt Nam” thì người bạn gái yêu thương bị kẻ thù giết hại một
cách thảm khốc. Một hôm, ông đến gặp các nhà lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí hội trịnh trọng tuyên bố :” Một khi Việt Nam chưa giải phóng, đất nước chưa thống
nhất thì đời này, kiếp này tôi nhất định không thành gia thất”. Từ Đại lục,
“Phúc Kiến kiều báo” có đăng tải bài : “Tình yêu vượt qua Hồng Hà, chuyện tình
Hồ Chí Minh” với nội dung như sau : “Năm 20 tuổi, Hồ Chí Minh rời quê hương Nghệ An ra đi trên
một chiếc tàu thủy đến nước Pháp tìm chân lý qua nghĩa Marx- Lenin để giải
phóng dân tộc. Hai tháng lênh đênh trên biển, ông làm quen với một cô gái con
nhà gia thế, dáng vóc xinh đẹp, tính tình nhu thuận. Ông Hồ là một thanh niên
cao thượng, phong cách tao nhã, làm việc cần mẫn không nghỉ, quyết chí hiến
thân cho lý tưởng quốc gia độc lập, dân tộc giải phóng, làm người thiếu nữ vô
cùng cảm động và ái mộ. Năm 1923, Hồ
Chí Minh đi Liên Xô học tập.
Một thời gian sau người yêu của ông cũng được cử qua đường Liên Xô về nước truyền
bá ngọn lửa cách mạng. Cặp tình nhân níu áo, rơi lệ từ biệt nhau. Sau đó, Hồ Chí Minh từ Liên Xô trở về Quảng Châu Trung Quốc vận động thành lậpViệt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí hội và “Hội liện
hiệp các dân tộc Á Đông bị áp bức”. Đúng
vào lúc Hồ Chí Minh toàn tâm toàn ý hoạt động cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc Việt thì một tin dữ truyền đến, người yêu của ông bị kẻ thù sát hại một
cách thảm khốc. Hồ Chí Minh đau đớn tưởng như không thể sống được nữa. Một
ngày, ông đến gặp các cán bộ chủ chốt của Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí hộitrịnh trọng tuyên bố : “ Việt Nam chưa giải
phóng, đời này, kiếp này, tôi quyết không thành gia thất”.
Tăng Tuyết Minh, người vợ
đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc
Câu chuyện hôn nhân, ái tình của
Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu đổi tên thành Lý Thụy.
Vào một ngày cuối năm 1925, Tăng Tuyết Minh đến trụ sở “Hội Phụ nữ vận động diễn
tập” tìm gặp Thái Sướng, lúc xuống lầu, bất ngờ gặp Lý Thụy ở chỗ rẽ cầu thang.
khi ấy, hai người chẳng để ý gì đến lễ tiết mà cùng đối mặt nhìn nhau. Lý Thụy
bị phong thái cao nhã, dáng vẻ rạng rỡ của cô bắt mất hồn, khi lên gác, không
nén được bèn hỏi Thái Sướng : “Vị tiểu thư vừa rời khỏi đây tên là gì và có
quan hệ thế nào với Hội Phụ nữ?”. Thấy Lý Thụy dường như đã có tình ý với Tăng Tuyết Minh nên Thái Sướng vui vẻ giới thiệu nhân
thân cô gái Quảng Châu với anh ta, đồng thời, cùng Đặng Dĩnh Siêu đứng ra làm mối
cho cuộc nhân duyên này.
Tăng Tuyết Minh sinh tháng 10 năm 1905 tại Quảng Châu,
nguyên quán trấn Tông Khẩu, huyện Mai, tỉnh Quảng Đông. Cha là Tăng Khai, nhà
buôn, đã từng kinh doanh ởHonolulu (nước Mỹ), cả nhà theo đạo Cơ Đốc. Tăng Tuyết Minh là con gái út của gia đình. Từ năm
1912 đến năm 1917, Tuyết Minh học tư thục tại Quảng Châu qua các trường Trấn Quang tiểu học và
Đệ thập tứ Quốc dân tiểu học. Mùa
xuân năm 1923, Tăng Tuyết Minh vào học trường Nữ hộ sinh, năm 1925 tốt
nghiệp. Sau khi được hiệu trưởng Hoàng Ngọc Anh giới thiệu, cô đến làm nữ y tá
trợ sản Sở Y vụ La Tú Vân Quảng Châu. Lúc ấy, Tăng
Tuyết Minh vừa tròn hai mươi tuổi.
Đương thời, Quảng Châu được xem như trung tâm cách mạng. Hà Hương Ngưng, Đặng
Dĩnh Siêu, Thái Sướng sáng lập tổ chức “Phụ nữ vận động diễn tập”. Chịu ảnh hưởng
của tư tưởng cách mạng, Tăng Tuyết
Minh thường đến trụ sở Hội Phụ vận
nghe diễn thuyết, tham gia hoạt động, kết bạn thân thiết với Đặng Dĩnh Siêu và
Thái Sướng.
Tăng Tuyết Minh có người anh thứ hai Tăng Cẩm Tương là
bạn cũ của Tôn Trung Sơn, tinh thông năm ngoại ngữ, văn bút tinh xảo, là giảng
viên đại học. Tăng giáo thụ mời Lý Thụy đến nhà. Trong khi nói chuyện, thấy Lý
Thụy khiêm nhường, tự tin, thiết thực, nhiệt tình, có viễn kiến, lịch duyệt và
biết nhiều ngoại ngữ, ông đã thay mặt gia đình tác thành cho đôi lứa. Ngày 18
tháng mười năm 1926, hôn lễ được cử hành long trọng
tại nhà hàng Thái Bình Dương trước sự chứng kiến của đông đảo quan khách do Đặng
Dĩnh Siêu, Thái Sướng chứng kiến và chủ trì. Cố vấn Nga Xô Mikhail Borodin, trợ
thủ đắc lực của Trương Thái Lôi cũng đến chúc mừng.
Cuối năm 1926, Tăng Tuyết Minh mang thai. Lý Thụy khấp khởi mừng thầm
vì sắp được hưởng niềm vui làm bố. Có điều, mẹ Tăng Tuyết Minh là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ
con gái sinh cháu bé sẽ theo chồng đi mất nên đã tìm mọi cách ép nàng phá thai.
Tuy Tăng Tuyết Minh có những mười anh chị em, nhưng trừ
anh hai Tăng Cẩm Tương, còn lại đều sống xa gia đình. Cha mất sớm, mẹ tuổi già
cô độc, vì chữ hiếu, nàng khó mà trái lời khuyên của mẹ nên đã gặp Lý Thụy nói
sự thật rồi nuốt nước mắt bỏ đi cốt nhục của mình, để lại mối hận cho đến cuối
đời. Từ khi kết hôn đến lúc hai người chia tay chưa đầy một năm.
Tình hình cách mạng Trung Quốc biến chuyển nhanh. Ngày 12 tháng 4 năm
1927, Tưởng giới Thạch gây ra sự kiện"Trung Sơn Hạm" triệt để phản bội cách mạng, điên cuồng
truy sát các đảng viên Cộng sản,
tạo thành vụ khủng bố trắng tanh máu người làm chấn động dư luận quốc tế. Trước
tình hình nghiêm trọng, Lý Thụy nhận chỉ thị của Quốc tế cộng sản, theo đoàn cố vấn Nga
Xô đi Vũ Hán, chuyển qua Thượng Hải, sau đó đến Vladivostok để đi Mạc
Tư Khoa. Từ đó vợ chồng mỗi người một phương.
Năm 1929, Lý Thụy đến Hương Cảng
đổi tên thành Tống Văn Sơ, tháng 2 năm 1930, theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Cửu Long, Hương Cảng. Tháng 6 năm
1931, Tống Văn Sơ bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam tại nhà lao Victoria. Tống
Văn Sơ tìm cách báo tin cho Tăng Tuyết Minh biết việc mình bị câu lưu. Được
tin, các chị gái Tăng Tuyết Minh nhiệt tình giúp đỡ bằng cách mời luật
sự biện hộ để em rể thắng kiện trước tòa.Tăng Tuyết Minh theo các chị đến nơi mới biết Tống Văn
Sơ chính là Lý Thụy, chồng mình, vội đến nhà giam thăm nhưng không được gặp
đành gạt nước mắt ra về.
Năm 1958, Viện Vệ sinh y vụ Quảng
Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng
sự có người tố cáo, trước đây Tăng
Tuyết Minh vàNguyễn Ái Quốc có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động
cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi,Tăng Tuyết Minh chỉ nói, người có sự trùng tên, vật có
sự đồng dạng, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ
vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành
y tế bèn làm văn bản gửi lên chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công
văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của Hồ Chia Minh thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng
xác nhận Tăng Tuyết Minh và Hồ
Chí Minh đã từng là vợ chồng.
Tuy nhiên, chuyện này liên quan đến quan hệ hai nước, không được làm ảnh hưởng
đến tình hữu nghị Trung - Việt, sự việc mới lắng xuống.
Liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta
không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nhờ tìm người vợ đã mất tin
nhiều năm? Tăng Tuyết Minh một thân cô quả, thủ tiết chờ chồng từ
năm hai mươi mốt tuổi, làm nghề nữ hộ sinh, trải qua sóng gió Cách mạng văn hóa
rồi nghỉ hưu, một thân một mình cho đến năm 1991 thì qua đời ở tuổi 86.
Vợ tôi, đối với Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường gọi bằng “cô
Mười”. Từ khi sinh ra đến lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là tín đồ trung
thành của đạo Cơ Đốc, ngày đêm cầu khấn cho Lý Thụy bằng an. Năm 1988, khi tôi
cùng vợ về Quảng Châu viếng thăm bà cô Mười, trong ký ức bà vẫn nhớ đến Hồ
Chí Minh lúc chia tay từ mấy chục
năm trước. Bà kể tường tận cho chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết Hồ Chí Minh, nảy sinh tình cảm nam nữ
rồi quá trình tổ chức hôn lễ rất xúc động. Tôi gửi lại bà tấm ảnh quý và bức
thư ngày trước viết cho Hồ Chí
Minh mà bà gửi tôi giữ hộ. Lúc ấy
trong tay vợ tôi còn có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lý Thụy đã tặng bà cô Mười lúc
đính hôn cùng với tấm rèm cửa cố vấn M. Borodin chúc mừng hôn lễ. Những vật kỷ
niệm này được gia đình tôi coi như bảo vật truyền gia của người bà để lại. Vào
dịp kỷ niệm ngày sinh 111 của Hồ
Chí Minh và 96 năm của Tăng Tuyết Minh, tôi, với tư cách là
thành viên Sở Nghiên cứu văn sử thành phố Vũ Hán, Ủy viên Chính hiệp thành phố,
là nhà thư pháp, hiểu rất rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình khi soạn cuốn
sách này. Bởi vì cuốn sách chính là tấm lòng kính yêu của một kẻ hậu sinh tưởng
nhớ đến người cô Tăng Tuyết Minh,
cho dù tình cảm bị tổn thương vẫn một lòng chung thủy chờ chồng, suốt đời cam
chịu sống độc thân, và lãnh tụ Hồ
Chí Minh , chiến sĩ đấu tranh
không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng Việt Namvà cách mạng thế giới, suốt đời
sống độc thân, không mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Dù thời gian qua đi
nhưng tình cảm của hai người vẫn không thay đổi, một lòng một dạ trung trinh, đời
đời ghi vào lịch sử.
Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa
Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Viết về hôn nhân và tình ái của Hồ Chí Minh, có thể điểm đến các tác
phẩm “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, dài khoảng 4200 chữ,
do Từ Song Minh (cháu của người chị gái bà Tăng
Tuyết Minh viết), Khổng Khả Lập
phê bình, chú giải tại nguyệt san “Vũ Hán văn sử tư liệu”, năm 2001, kỳ 1, William J. Duiker, với “Truyện Hồ Chí
Minh” gồm hai phần, cả hai phần này đều lấy tư liệu từ “Trung tâm quân viễn
chinh bảo hộ” thuộc "Hồ sơ
Pháp quốc hải ngoại”, hòm số 367, tiêu đề “Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc, 1926 – 1927).
Phần thứ nhất, chương 4, trang
143 “Long đích truyền nhân” ( Người nối dòng rồng), nội dung như sau : “Mùa
xuân, năm 1927, Nguyễn Ái Quốc dừng lại ở Quảng Châu già nửa năm. Ông
ta đã trở thành nhân vật trọng yếu được các thành viên trong đảng đoàn kính nể,
đồng thời cũng kiến lập được mối quan hệ rất tốt với nhà cách mạng Chu Ân Lai,
Trương Thái Lôi và các lãnh tụ Quốc dân đảng cánh tả (là đảng viênĐảng Cộng sản
Trung Quốc) Liêu Trọng Khải v.v…Đến lúc ấy, chẳng những Nguyễn Ái Quốc đã ổn định cuộc sống tại Trung Quốc mà còn muốn tìm một người vợ để học
Trung văn, đồng thời lo liệu mọi sinh hoạt gia đình. Không lâu sau, một người đồng
sự là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) giới thiệu vớiNguyễn Ái Quốc một thiếu nữ là Tăng Tuyết Minh để hai người làm quen. Tuy cô gái là
con một gia đình có giáo dục nhưng một số đồng nghiệp vẫn không tán thành. Nguyễn Ái Quốc bất chấp mọi phản đối, quyết định cầu
hôn. Sau hôn lễ, hai người chuyển đến ở một phòng trên tầng 2 biệt thự của M.
Borodin. Việc này đã được báo cáo với Mạc Tư Khoa”.
Một phần khác, ghi chép tại
chương 6 “ Xích sắc Nghệ Tĩnh” ( Màu đỏ Nghệ Tĩnh), trang 188-189 viết” Tình
yêu giữaNguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Ái Quốc không phải mọi người đều biết, thậm
chí cũng chẳng biết có hay không hôn lễ cử hành chính thức. Từ tháng 4 năm
1927, tuy Nguyễn Ái Quốc đã rời Trung Quốc, vẫn còn chưa chưa mất hết
dấu tích, chứng cứ là , vào năm 1930, Tăng
Tuyết Minh ngẫu nhiên gặp lại chồng
ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giữa hai người vẫn không nối lại. Theo một
đồng chí của Nguyễn Ái Quốc là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) nói với
một người quen ở Cục Bảo an : “ Tăng
Tuyết Minh chê Nguyễn Ái Quốcnhiều tuổi, không hợp với
mình, đồng ý kết hôn chỉ vì lý do kinh tế”. Khoảng gần một năm sau, khi Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu có gửi cho Tăng Tuyết Minh một bức thư : "Hai ta phân ly gần một năm, cho
dù không nói được lời nào nhưng anh vẫn thấy tình cảm chẳng khác gì ngày trước.
Anh viết gửi em mấy dòng này làm vật chứng, xin em chắp tay trước nhạc mẫu
chuyển lời của anh chúc phúc đến bà”. Khi quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng
Tuyết Minhchấm dứt, vào năm 1931, ông bắt đầu có quan hệ luyến ái với với một nữ
đồng chí trẻ tuổi người đồng hương là Nguyễn
Thị Minh Khai, đồng thời đề nghị Cục Viễn Đông tổ chức đám cưới cho hai người.
Giáo sư Hoàng Tranh, viện trưởng Viện Khoa học lịch sử Quảng Tây, đã dành nhiều
thời gian và tâm huyết nghiên cứu về mối quan hệ Trung Việt và Hồ Chí Minh . Sau nhiều năm điều tra, khảo chứng,
ông đã viết trên tờ “Đông Nam Á tung hoành” (Dọc ngang Đông Nam Á), kỳ 12,
tháng 11, năm 2001, kết luận Hồ
Chí Minh đích xác có một
người vợ Trung Quốc là Tăng
Tuyết Minh.
Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn
nhân Tăng Tuyết Minh
Nguyễn Ái Quốc và Tăng
Tuyết Minh, năm 1925 bắt đầu có quan hệ luyến ái, năm 1926 kết hôn, vậy vì sao,
người cháu con bà chị là Từ Song Minh đến năm 2000 mới công bố bài viết “Hồ Chí
Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” kể về chuyện hôn nhân của bà Cô Mười?
Qua sử liệu và quá trình nghiên cứu, đối chiếu, ta có thể thấy bên trong sự kiện
này có nhiều vấn đề phức tạp. Sự thật cuộc hôn nhân này dường như đã bị ban
lãnh đạo Cộng sản VN bưng bít, xem như một loại tài liệu cơ mật không thể công
bố. Năm 2000, William J. Duiker xuất bản cuốn “Truyện Hồ Chí Minh”, tập 1, tác
giả có đề cập đến chi tiết, một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!)
tố cáo với Cục Bảo an Pháp như sau : “Tăng Tuyết Minh chê Nguyễn
Ái Quốc nhiều tuổi, không phù hợp
với mình, chấp nhận kết hôn chẳng qua là do nhu cầu kinh tế”. Đoạn này rất
không phù hợp với sự thực lịch sử, bởi nó đã vu khống tình yêu chân chính (sinh
tử luyến) và tấm lòng trung trinh của Tăng
Tuyết Minh với Nguyễn Ái Quốc, bôi nhọ nhân cách và
danh dự của bà làm cho Từ Song Minh vô cùng phẫn nộ đối với William J. Duiker.
Vì thế, năm 2001, ông mới viết bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết
Minh” do Khổng Khả Lập phê bình, đăng tại nguyệt san “Vũ Hán văn sử tư liệu”.
Bài báo cực lực phản bác Lam Đức Thư vu khống, đồng thời khẳng định tình cảm của
bà cô Tăng Tuyết Minh đối với Nguyễn Ái Quốc trước sau như một không hề thay đổi.
Qua bài viết, Từ Song Minh cũng đã làm sáng tỏ giai đoạn bị ẩn giấu sau 75 năm
quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng
Tuyết Minh, từ đó cũng chứng minh được Trung Cộng và Việt cộng luôn tìm cách
che giấu sự thật lịch sử này.
Trong “Hồ Chí Minh và người vợ
Trung Quốc” có đoạn viết : " Ngày 19 tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc tờ “Văn hối báo” thấy in ảnh chân
dung Hồ Chí Minh cùng điện văn chúc mừng sinh nhật
lần thứ 60 của Trung ương Đảng Cộng
sản Trung Quốc và chủ tịch Mao Trạch
Đông kèm theo bài viết về cuộc đời hoạt động và sự nghiệp văn chương của ông. Đến
lúc ấy bà mới biết, hình bóng người chồng thân thương lúc nào cũng thấp thoáng
hiện về trong giấc ngủ hàng đêm chính là chủ tịch Hồ Chí Minh . Tuy nhiên mọi cố gắng của Tăng Tuyết Minh liên hệ với Hồ Chí Minh đều không có kết quả. Trong “Thê thiếp,
nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết : “Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân dân nhật báo” mới biết người
chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ
Chí Minh , chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bà đã mấy lần
gửi thư đến Đại sứ quán Việt Namtại
Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, Tăng Tuyết Minh lại đề nghị với nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho sang
Hà Nội gặp Hồ Chí Minh nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung
Cộng cự tuyệt.
Theo tinh thần của bài viết,
rõ ràng cho thấy, Nguyễn Ái Quốc của năm 1926 và Hồ Chí Minh của năm 1950 là cùng một người. Trung
Cộng và Việt Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của Hồ Chí Minh nên không dám dể Tăng Tuyết Minh gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ
lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ Hồ Chí Minh năm 1950 không phải là Nguyễn Ái Quốc (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm
giả điếc, biết rõ Tăng Tuyết Minh đau khổ mà không làm gì được.
Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật
giả - một vụ án kép
Trong “ Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết
Minh” có đoạn: “ Năm 1958, Viện Vệ sinh y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với
phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo trước đây Tăng Tuyết Minh và Hồ
Chí Minh có quan hệ hôn nhân mờ
ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, Tăng Tuyết Minh chỉ nói: người có sự trùng tên, vật có
sự đồng dạng, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương
sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi
lên chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Trung
Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền
gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của Hồ Chí Minh thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng
xác nhận Tăng Tuyết Minh và Hồ
Chí Minh đã từng là vợ chồng.
Tuy nhiên, chuyện này nếu xử lý không thận trọng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hữu
nghị hai nước, nội vụ mới được dẹp yên”.
liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta
không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nhờ tìm người vợ đã mất tin
nhiều năm?
Trong “Mối tình nồng thắm giữa
Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn viết : “ Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội,
hai ông già thong thả buông cần câu cá, đó chính là Hồ Chí Minhvà Đào Chú. Hồ Chí Minh thần sắc khác thường trịnh trọng
nói với Đào Chú: “Trung Quốc có
câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đã
hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y
Lan sang Hà Nội, bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”. Sau
khi về nước, Đào Chú báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông đề đạt nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Khi ấy Tổng lý Chu Ân Lai và các vị lãnh đạo cao cấp
cũng có mặt, vô cùng kinh ngạc. Về phía mình, Bắc Việt vội triệu tập cuộc họp Bộ
Chính trị để biểu quyết về sự kiện đặc biệt này”.
Hai bài báo trên đều xuất hiện
vào năm 1958. “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” xuất hiện
vào thời kỳ Trung Cộng “đại minh, đại phóng”, sự kiện hôn nhân của Tăng Tuyết Minh và Nguyễn
Ái Quốc bị hiểu sai. Thân phận
nhân vật nam chính Nguyễn Ái Quốc bị biến thànhHồ Chí Minh theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia’
hay “hồn Trương Ba da hàng thịt” tạo nên sóng gió của một vụ án kép (song bào
án). Bài “Mối tình nồng thắm của Hồ
Chí Minh và Lâm Y Lan” kể về
việc Hồ Chí Minh nhờ Đảng Cộng sản Trung Quốc nối lại mối quan hệ hôn nhân với người
phụ nữ Quảng Đông Lâm Y Lan. Hai sự kiện hôn nhân và tình ái trên đã thể hiện rất
rõ sự khác nhau của mỗi trường hợp. Hoàn cảnh xuất hiện con người và tình yêu
cũng không giống nhau. Tình yêu của Nguyễn
Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh có Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng, M.
Borodin, Trung Cộng và Quốc tế cộng
sản chứng kiến. Tình yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan có Mao Trạch Đông, Đào
Chú của Trung Cộng, Tổng Bí thư Lê Duẩn và các Ủy viên BCT Cộng đảng Việt Nam biết rõ.
Có thể khẳng định, bất cứ ai ,
nếu không biết rõ, sẽ không dám tự tiện đưa sự kiện này lên báo chí, càng không thể có gan bịa đặt, hư cấu. Cho
nên, hai bài báo về hai sự kiện hôn nhân mâu thuẫn nhau như đã trình bày phải
được khẳng định là có cơ sở thực tế.
Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già –
Tấm ảnh chân dung
Bài “Hồ Chí Minh và người vợ
Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, phần cuối kèm thêm hai tấm ảnh chân dung, một
trong hai tấm có dòng chữ “Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”. Trên tường treo ảnh
chân dung Hồ Chí Minh chụp năm 1960, nhưng nếu so với tấm ảnh
Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc treo trước tủ gương thì hai khuôn mặt
rất không giống nhau. Tấm ảnh Nguyễn
Ái Quốc chụp năm 1930 có đeo
cravate. Tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”, của giáo sư William J. Duiker, trong một
trang ảnh kèm theo có hai tấm chân dung Nguyễn
Ái Quốc và tấm chân dung Tăng Tuyết Minh để trong hộp gương gần như giống nhau
hoàn toàn. W.J. Duiker nói rõ về tấm ảnh bên cạnh : “Hồ Chí Minh nói với bạn bè lànsuốt đời ông chưa bao giờ thắt
cravate”, nhưng căn cứ vào tấm ảnh chân dung, có thể chứng minh, Hồ Chí Minh bảo mình chưa bao giờ thắt cravate là
chuyện hoang đường. Từ chi tiết trên, bất giác tôi nhận ra được cái lý trái ngược
của sự hoang ngôn ấy. Bởi vì,
từ đầu chí cuối William J. Duiker luôn cho rằngNguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minh chỉ là một người nên mới
có chuyện nghi ngờ Hồ Chí Minh suốt đời chưa từng thắt cravate. Khẳng
định Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minhkhông phải là hai người, William J. Duker giải thích thế nào về lời
thanh minh của ông ta?
Kiểm tra tỷ mỉ các tấm ảnh
chân dung từ sau năm 1933 kèm theo hồ sơ, bất kể là Hồ Chí Minh chủ trì các hội nghị lớn nhỏ, phát biểu
trước đồng bào toàn quốc, cũng như các chuyến xuất ngoại sang Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ hay nước Pháp…đều
chưa thấy ông đeo cravate. Nói chung, trang phục thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần áo đồng màu như Lenin
hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần chất phác, không mấy coi trọng hình
thức, thậm chí còn có vẻ quê mùa. Đây chính là kiểu sinh hoạt rất đặc biệt củaHồ
Chí Minh .
Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất hợp thời trang. Ví dụ,
năm 1907, lúc Nguyễn Ái Quốc 17 tuổi, rời nhà vào Huế học hệ sơ học
Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế giễu đã chủ động cắt tóc ngắn, trang
phục như trào lưu thời thượng. Tại nước Pháp, Liên
Xô hay Trung Quốc, cho dù gặp lúc kinh tế quẫn
bách, nhưng tại các cuộc họp, Nguyễn
Ái Quốc vẫn tạo mọi điều kiện để
mặc Âu phục, thắt cravate. Những tấm ảnh còn lại được lưu trong hồ sơ của ông
đã chứng thực nhận xét trên. Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh”,
“Lĩnh Nam di dân” từng viết : "Con
gái Vera Vasilieva từng nói với Sophie Quinn - Judge, Nguyễn Ái Quốc ăn mặc cực kỳ chỉnh tề
và đúng mốt thời trang. Ông ta thường phối hợp màu sắc một cách hài hòa khiến mọi
người đều phải chú ý vào chiếc cravate. Hơn nữa, trên người Nguyễn lúc nào cũng
phảng phất mùi nước hoa càng tăng thêm vẻ lịch lãm”. Phía sau tấm ảnh chân dung
dường như còn ẩn giấu nỗi đau buồn của câu chuyện tình thời trai trẻ.
Tự khúc bi ca ái tình
Tình yêu và hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai vào năm 1930 -1931
trước sau cộng lại không đầy một năm, vì
hai người từ biệt nhau đến Hương Cảng thì bị cảnh sát bắt giam, kết thúc giai
đoạn hôn nhân ngắn ngủi. Cuộc hôn nhân tuy không dài nhưng lịch sử đã ghi lại rất
rõ ràng, trong khói lửa chiến tranh, tình cảm của đôi lứa thật chân thành. Năm
1932, Nguyễn Ái Quốc bị bệnh qua đời là sự thực, còn Nguyễn Thị Minh Khai, đến năm 1935 cải
giá, kết hôn với Lê Hồng Phong cùng là sự thật. Sự việc này vốn dĩ rất
bình thường nếu như không có bàn tay Quốc
tế cộng sản thao túng, bí mật đạo
diễn màn kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, cùng giới chóp bu Trung cộng và Việt
cộng, tạo ra chung quanh Hồ Chí
Minh vòng hào quang, biến
ông thành một vị thánh, phỉ báng mối tình đẹp đẽ của Nguyễn Ái Quốc vàNguyễn Thị Minh Khai.
Hồ sơ hôn nhân của Nguyễn Thị Minh
Khai
1/ William J. Duiker viết về quan hệ
hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai
William J. Duiker, trong “Truyện
Hồ Chí Minh” viết : “ Hồ sơ về tình yêu, hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai gồm ba phần. Tư liệu
của ba phần này đều dẫn từ “Trung tâm quân viễn chinh bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp
quốc hải ngoại”, hòm số 367 và “ Hồ Chí Minh từ Đông Dương đến Việt Nam” của Daniel Hách Mai Lý (7) do NXB Galimard, Paris ấn hành, năm
1990.
Phần thứ nhất
Tại chương 6 “Màu đỏ Nghệ
Tĩnh”, trang 85 viết : “ Tháng 10 năm 1930, tại nhà trọ “Nhất Đống”, phố Khai
Di, Cửu Long, Hương Cảng, khai mạc Hội nghị Trung ương ,Nguyễn Ái Quốc là đại biểu Quốc tế cộng sản được cử làm Chủ tịch ĐCSVN. Cùng dự
còn có một nữ đảng viên trẻ tuổi, mắt sáng, da ngăm ngăm, được ủy nhiệm làm trợ
lý choNguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thị Minh Khai”
Phần thứ hai
Cũng tại chương 6, trang
198-199, tác giả viết : “Nguyễn Ái Quốc tại
Hương Cảng chờ tin tức. Từ khi Nguyễn
Thị Minh Khai làm trợ lý cho Nguyễn Ái Quốc, hai người đã nảy sinh
tình cảm. Minh Khai tuổi trẻ, ngoại hình hấp dẫn đã làm Nguyễn Ái Quốc mê đắm. Tình yêu của Nguyễn Ái Quốcvà Nguyễn Thị Minh Khai đến khá nhanh chóng. Vào mùa xuân năm
1932, hai người đã báo cáo với Cục Viễn Đông đề nghị được kết hôn. Đại biểu Quốc tế cộng sản là Hilaire Noulens đã
gửi thư thông báo cho Nguyễn Ái
Quốc vào tháng tư. Tuy nhiên,
không lâu sau, Nguyễn Thị Minh
Khai, vì bị tình nghi có liên can đến hoạt động phiến loạn, bị cảnh sát Hương Cảng
bắt chuyển về Quảng Châu tống giam vào nhà tù Quốc dân đảng.
Phần thứ ba
Tại chương 7 “ Đứng trước những
biến động”, trang 224- 225, viết : “25 tháng bảy năm 1935, khai mạc Hội nghịQuốc tế cộng
sản lần thứ VII tại
Mạc Tư Khoa, Đảng Cộng sản Đông
Dương cử ba đại biểu là Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn (Nông) tham gia hội
nghị. Ban tổ chức yêu cầu cả ba đại biểu đều đọc tham luận.Nguyễn Ái Quốc lúc ấy là Bí thư Cục Viễn Đông, đến Hội
nghị với tư cách quan sát viên, không được phép phát biểu, như một diễn viên phụ,
đóng vai trò bàng quan.
Trước khi Hội nghi khai mạc mấy tháng,
Ban lãnh đạoĐảng Cộng sản Đông Dương có
gửi cho Bí thư thứ nhất Đông Phương cục một bức thư, kèm theo bản báo cáo mật,
nội dung đề cập đến “Nguyễn Ái Quốc phu nhân”, một đại biểu tham gia Hội nghị.
Lời văn ám chỉ Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai, năm 1932, tại Hương Cảng, trước khi bị cảnh sát bắt đã từng là vợ
chồng. Có lẽ như tác giả Liên XôKobenov
trong cuốn “Quoc’s wife” (Vợ của
Quốc), từng suy đoán, trên đường sang Mạc Tư khoa, Nguyễn Thị Minh Khaiái mộ phong độ anh
tuấn của Lê Hồng Phong rồi nảy sinh tình yêu chăng? Có khả
năng, vào mùa xuân năm 1931, sau khi chia tay với Nguyễn Ái Quốc rồi bị bắt, đến lúc ấy đã qua 4 năm,
tình cảm hai người không còn đằm thắm như trước. Cho dù sự thực thế nào, thì
sau khi Hội nghị VII bế mạc không lâu, Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai đã kết hôn tại Mạc
Tư Khoa.
Thời gian Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khaisống với nhau, có thể nói, nhân thân của Nguyễn Ái Quốc tồn tại nhiều vấn đề khó lý giải. Trở
lại một số năm trước, ông chưa từng nói với các đồng chí về mối quan hệ này.
Tuy nhiên các nhà lãnh đạo Hà Nội lại ra sức phủ nhận hai người đã từng có quan
hệ vợ chồng. Cũng không loại trừ trường hợp, Nguyễn
Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai chưa kịp cử hành hôn lễ chính thức mà
chỉ có sự chứng kiến của một số ít đồng sự làm cơ sở pháp lý. Nguyễn Ái Quốc cùng một lúc mất cả vợ lẫn quyền lãnh
đạo, phải chăng, như một nhà quan
sát từng nói “hai lần tủi nhục”.
2/ Sophie Quinn - Judge viết về
quan hệ hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai
Trong tác phẩm “Những năm
tháng mất tích của Hồ Chí Minh 1919 - 1941”, tài liệu mà Sophie Quinn
- Judge dùng để thuật lại quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai gồm hai phần. Phần
một, dẫn từ hồ sơ số 367 của “Trung tâm quân viễn chinh bảo hộ” thuộc “Hồ sơ
Pháp quốc hải ngoại”, ngày 12
tháng hai năm 1931 do Victor viết gửi về. Phần hai,
dẫn từ “Lịch sử hiện đại Liên Xô” của “Trung tâm nghiên cứu và lưu trữ”
495/154/688, trang 14, từ các ngày 14,15,17 tháng 12 năm 1934 và ngày 31 tháng
3 năm 1935 của Cục Hải ngoại gửi về Mạc Tư Khoa.
Phần một, chương 5 “Cao trào
cách mạng”, trang 182, viết :“ Mùa đông năm 1930, Nguyễn Ái Quốc báo cáo với Cục Viễn Đông kế hoạch kết
hôn. Ngày 12 tháng 1, Cục Viễn Đông gửi văn bản trả lời, nội dung là Nguyễn Ái Quốc phải thông báo thời gian chính xác trước
hai tháng. Vì thư hồi đáp không ghi danh tính người nhận chỉ nên chỉ có thể
suy đoán là chuyện hôn sự của Hồ
Chí Minh . Sang tháng hai, Hồ Chí Minh bàn với Nguyễn Thị Minh Khai, đầu năm mới, chuẩn
bị đón khách từ Sài Gòn và Đông Kinh đến thăm.
Phần hai, chương 6, có tiêu đề
“ Chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc Tư Khoa?” (trang 202- 203), viết: “Ngày 8
tháng mười hai năm 1930, ba đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương đến Mạc Tư Khoa. Những người này phân biệt rõ rệt với các
thành viên của Cục Hải ngoại, là Lê HồngPhong, Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương Hà Huy Tập gửi thư choQuốc tế cộng sản , nói Nguyễn Thị Minh Khai là vợ Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Thị Minh Khai sau khi đến Mạc Tư Khoa, điền vào tờ
khai cá nhân, ở mục hôn nhân là đã có chồng tên là P.C.Lin, chính là một trong
những bí danh của Hồ Chí Minh. Về
điểm này có thể nói, thời gian quan hệ vợ chồng đằm thắm của hai người chỉ như
hạt sương mai trên ngọn cỏ. Tuy nhiênHồ Chí Minh chưa bao giờ được những người cộng sản
chính thức công nhận đã từng có vợ. Nguyễn
Thị Minh Khai ở Mạc Tư Khoa thường
dùng bí danh Phan Lan.
3/ Tác phẩm “Chị Minh Khai” của
nhà văn Nguyệt Tú, ngày kỷ niệm Quốc tế phụ nữ năm 2005, nhà xuất bảnTổng hợp thành phố Hồ Chí Minh ấn hành có liên quan đến chuyện tình
ái và hôn nhân, viết như sau:
- Vào một tháng của năm 1930,
là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc tham gia giảng dạy tại khóa Huấn luyện
chính trị. Hôm ấy là một ngày mưa bão, khắp các đường phố, cây cổ thụ bị bão
đánh bật tung gốc. Nguyễn Thị
Minh Khai trong nhóm học viên
nhòm qua ra sổ, nói : “Hôm nay có khả năng đồng chí Lý Thụy không đến được”.
Nhưng chỉ một lúc sau đã thấy đồng chí bước vào, tay cầm ô, áo quần ướt sũng nước.
Đồng chí ấy đã lên lớp đứng giờ. Minh Khai nhìn thân thể gầy yếu của Lý Thụy,
trong lòng vô cùng lo lắng.
- Ngày 29 tháng 4 năm 1932, Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt, ba năm liền giam trong ngục,
không nhận được bất cứ tin tức nào. Minh Khai nhớ lại những ngày sau khi bị bắt
ở Hương Cảng, từ nhà giam, chị định gửi cho các đồng chí mảnh giấy nhắn
tin, nhưng rồi lại nghĩ, liệu có được chuyển đến tay người nhận hay không? Chắc
là không thể được nên đã thu lại mảnh giấy mà chỉ gửi lời nhắn. Cách đấy không
lâu, ngày 6 tháng sáu năm 1932, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bị mật thám Anh bắt tại Cửu Long. Cô
nghĩ đến người lãnh đạo chủ chốt của cách mạng Việt Nam phải đối diện với hiểm nguy, lòng đau
như cắt.
- Nguyễn Thị Minh Khai và các đồng chí trong đoàn đại biểu
tham gia Hội nghị VII Quốc tế cộng sản , từ đoàn trưởng Lê Hồng Phong đến Hoàng
Văn Nọn, đều không ai có đủ quần áo ấm. Minh Khai tranh thủ thời gian, cố gắng
đan choHoàng Văn Nọn chiếc áo len
cộc tay và Lê Hồng Phong chiếc khăn quàng cổ. Hoàng Văn Nọn tham gia rất nhiệt tình vào lễ thành
hôn giản dị nhưng vô cùng vui vẻ, thắm tình đồng chí của Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai. Sau này, trong hồi ký của mình, Hoàng Văn Nọn kể về hôn lễ của Lê HồngPhong và Nguyễn
Thị Minh Khai : “ Lúc trở về nhà,
nhìn thấy mâm cơm chiều có nhiều món ăn hơn so với ngày thường, tôi hỏi : “ Hôm
nay Minh Khai làm cô dâu nên chiêu đãi anh em phải không?”.Minh Khai đỏ mặt
không nói gì, chỉ lắc đầu cười. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, Hà Huy Tập đứng
lên trịnh trọng tuyên bố: " Hôm nay, Đảng vì anh chị tố chức hôn lễ,
chúng tôi chúc cho cô dâu chú rể sống đến đầu bạc răng long”.
Sự thật về quan hệ hôn nhân
giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai
1/ William J. Duker viết : “ Năm 1931, Nguyễn Ái Quốcvà Nguyễn Thị Minh Khai bắt đầu yêu nhau, sau đó đề nghị Cục
Viễn Đông cho phép kết hôn.
2/ Sophie Quinn - Judge viết :
“Mùa đông năm 1930,Nguyễn Ái Quốc báo
cáo Cục Viễn Đông kế hoạch kết hôn. Cục Viễn Đông có thư trả lời nhưng vì thư hồi
đáp không ghi danh tính người
nhận chỉ nên chỉ có thể suy đoán là chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh. Trong vòng hai tháng, Hồ Chí Minhbàn với vị hôn thê, sau năm
mới sẽ đón khách từ Sài Gòn và Đông Kinh đến thăm.
3/ Nhà văn Nguyệt Tú, trong
“Chị Minh Khai” viết:“Hoàng Văn Nọn kể lại: “Tham dự lễ cưới đơn giản nhưng vô
cùng vui vẻ, thắm tình đồng
chí của Lê Hồng Phong vàNguyễn Thị Minh Khai, anh Hà Huy Tập
trịnh trọng tuyên bố: “Hôm nay, Đảng vì anh chị tố chức hôn lễ, chúng tôi chúc
cho cô dâu chú rể sống đến đầu bạc răng long”.
Tổng hợp các ghi chép trên, có
thể thấy, báo cáo củaNguyễn Ái Quốc về
việc kết hôn với Nguyễn Thị Minh
Khaivào mùa đông năm 1930 với Cục Viễn Đông và hôn lễ được cử hành tại Hương Cảng
vào mùa xuân năm 1931 là có thực. Nguyệt Tú dẫn lại hồi ức của Hoàng Văn Nọn đã bất ngờ làm rõ việc Đảng Cộng sản
Việt Nam cố tình ẩn giấu sự thực
hôn nhân giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai. Bản ý của Hoàng
Văn Nọn cho rằng, năm 1931, hôn lễ
của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai là sự thực, còn việc
Lê Hồng Phong kết hôn với Nguyễn Thị Minh Khai tại Mạc Tư Khoa chỉ là lễ cưới giả. Những
người chủ trương ẩn giấu sự kiện hôn nhân Nguyễn
Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khaikhông ngờ đến mấy
dòng ghi chú phần cuối: “Vương huynh” chỉ Lê Hồng Phong, “Duy tỉ” chỉ Nguyễn Thị Minh Khai đã vô tình làm lộ tẩy chân tướng. Khảo
cứu kỹ lưỡng nhiều lần các từ “Vương huynh” và “Duy tỉ” có thể thấy, “Vương
huynh” chỉ “lão Vương” hoặc “đồng chí Vương”, “Duy Tỉ” là “Chị Duy” hoặc “A
Duy”, bí danh của Nguyễn Thị Minh
Khai. Danh xưng “Vương huynh “ và “Duy Tỉ” được dùng vào những năm 1924 đến
1931 lúc Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai công tác tại Quảng
Châu, Hương Cảng. Trong khi ấy,
Lê HồngPhong dùng biệt danh
Litvinov, Tuệ An, Gia Chính, Hạ Dương v.v… nhưng chưa bao giờ dùng “Vương
huynh” làm bí danh ( gần đây, khi bí mật trên bại lộ, những người viết tiểu sử
Lê Hồng Phong đã thêm cho ông bí danh “Vương…” để phản
bác những ý kiến đối lập, nhằm hợp lý hóa thân phận Hồ Chí Minh và Lê Hồng Phong. Xin tham khảo mục “Lê Hồng Phong” trên từ điển mở Wikipedia). Điều
này làm cho người ta không khỏi nghi ngờ. Hà Huy Tập vào năm 1935, không có khả năng xuất
hiện tại Mạc Tư Khoa trong hôn lễ Lê Hồng Phong vàNguyễn Thị Minh Khai. Tháng 6 năm
1934, Hà Huy Tập giữ chức Tổng Bí thư, sau khi chủ trì Hội nghị Áo
Môn, đến năm 1938 bị bắt, năm 1942 bị xử tử và chưa bao giờ đến Mạc Tư Khoa,
làm sao có thể chủ trì hôn lễ của Lê Hồng Phong vàNguyễn Thị Minh Khai? Điều này chứng
tỏ, Cộng đảng cao cấp Việt Nam cố tình che giấu sự thật hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai.
Hôn ước của Lê Hồng Phong và
Nguyễn Thị Minh Khai
1/ William J. Duiker viết :
“Ngày 25 tháng 5 năm 1935, khai mạc Hội nghị lần thứ VII Quốc
tế cộng sản tại Mạc Tư
Khoa, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng
Văn Nọn là đại biểu chính thức của Đảng Cộng sản Đông Dương . Hội nghị kết thúc, Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai ở lại Mạc Tư Khoa,
không lâu sau, hai người đến Phòng đăng ký giá thú làm thủ tục kết hôn.
2/ Nhà văn Nguyệt Tú viết :
- Sau khi Hội nghị VII Quốc
tế cộng sản kết thúc, Lê Hồng Phong từ biệt Nguyễn Thị Minh Khai trở về Việt Namcông tác tại Xứ ủy Nam Kỳ, lấy bí
danh là Lý, với tư cách đại biểu Trung ương. Lê Hồng Phong và đồng chí Quang ở cùng một nơi. Hai
người phụ trách phong trào vận động công nhân, cùng ở trong một gian phòng bình
dân khu chợ Sắt Tây, ít lâu sau lại chuyển đến Ngã Sáu. Đồng chí Quang rất
thông cảm với Minh Khai, ngẫu nhiên được gặp chồng mà chỉ bàn bạc công việc, rất
khó để cùng ăn với nhau một bữa cơm. Phòng của Lê Hồng Phong chỉ đủ kê chiếc giường bạt, ban ngày gấp
lại, tối đến mới mở ra để
ngủ.
- Tết Nguyên đán năm 1940, Minh Khai ở
chợ Tân Thành, gần đường McMahon (
tác giả dự đoán đây là tỉnh Tân Tri, thuộc Nam Kỳ) trong nhà hộ sinh Hồng Phúc
nổi tiếng. Tại đây Nguyễn Thị
Minh Khai sinh hạ bé gái. Đứa bé
ra đời được 5 ngày thì Nguyễn Thị
Minh Khai đặt tên cho con là Nguyễn
Thị Hồng Minh, chính là tên của Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai ghép lại. Ngày 30
tháng bảy năm 1940, Nguyễn Thị Minh Khai bị cảnh sát Pháp bắt giam tại nhà tù
Phú Mỹ.Nguyễn Thị Minh Khai bao
giờ cũng mặc bộ đồ trắng đến phòng hỏi cung. Ngày 28 tháng tám năm
1941, Nguyễn Thị Minh Khai bị dẫn ra pháp trường Phúc Môn Bình
Lăng Cương xử tử. Lê Hồng Phong nhận được tin vợ thọ nạn, một năm sau,
vào một ngày tháng chín năm 1942, bị tra tấn dã man cũng chết ở
nhà tù Côn Đảo.
Theo ghi chép ở trên, quan hệ
hôn nhân của Lê HồngPhong và Nguyễn Thị Minh Khai là chính xác. Năm 1935, sau Hội nghị VII Quốc
tế cộng sản , hai người đã đăng
ký kết hôn, tết năm 1940, Minh Khai sinh con gái Hồng Minh, năm 1941 bị thực
dân Pháp xử bắn. Lê Hồng Phong chết ở nhà tù Côn Đảo năm 1942.
Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai
Bí danh P.C.Lin của Hồ Chí
Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc
Năm 1934, bí danh P.C.Lin (hoặc
P.C.Lâm) của Hồ Chí Minh chắc chắn không phải là Nguyễn
Ái Quốc. Tại
chương 2 “Màn kịch tráo rồng đổi
phượng”, ở mục 3 “Ve sầu thoát xác, thật giả
nhân sinh”, tôi đã dẫn những chứng cứ về việcNguyễn Ái Quốc bị lao phổi đã chết vào mùa thu năm
1932, còn Hồ Chí Minh, từ Hạ Môn
qua Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa là một người khác. Nói rõ hơn, khoảng thời gian từ
mùa xuân đến mùa hè năm 1933, người đến Mạc Tư Khoa mang bí danh Linov hoặc
P.C.Lin chính là Hồ Tập Chương, không phảiNguyễn Ái Quốc. Quốc tế cộng sản đã cử người thay thếNguyễn Ái Quốc dùng bí danh thay cho thân phận ông ta. Trong khi ấy, Ban lãnh đạo Đảng
Cộng sản Việt Nam cố tình đề cao
mối tình Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai, giấu kín và ra sức phủ nhận quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai, dẫn đến hệ quả là, Lê HồngPhong, Nguyễn Thị Minh Khai và bí danh P.C.Lin của Hồ Chí Minh , ba người nhưng lại có bốn thân phận
trong quan hệ hôn nhân, làm cho tình hình trở nên vô cùng phức tạp. Điều này
khiến cho các tác giả viết truyện ký về Hồ
Chí Minh, mỗi người đều tự tìm ra những nhầm lẫn trong sử liệu để giải thích về
các mối quan hệ hôn nhân đầy nghi vấn của họ.
1/ Năm 1934, sau khi đến Mạc Tư Khoa, Nguyễn Thị Minh Khai phải điền vào tờ khai nhân thân là đã
có chồng tên P.C.Lin. Nếu Nguyễn Thị Minh Khai biết bí danh củaNguyễn Ái Quốc là P.C.Lin thì làm sao lại có thể công
khai kết hôn với Lê Hồng Phong để làm mất mặt Nguyễn Ái Quốc? Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minh cùng mang bí danh
P.C.Lin, vậy vì sao, năm 1935, khi cùng đến Mạc Tư Khoa dự Hội nghị VII Quốc
tế cộng sản , Nguyễn Thị Minh Khai lại coi Nguyễn Ái Quốc gần như người xa lạ? Việc này nhất
định không hợp tình hợp lý. Chỉ có một cách giải thích là Quốc tế cộng sản đã chơi trò bỡn cợt “dời hoa tiếp cây”
(di hoa tiếp mộc), giấu nhẹm mối tình cao đẹp, trong sáng của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai mà đề cao cuộc hôn
nhân giữa Lê Hồng Phong với Nguyễn
Thị Minh Khai.
2/ Nguyễn Ái Quốc với chức danh Bí thư Cục Viễn Đông,
tham dự Hội nghị 7 Quốc Tế cộng sản với tư cách quan sát viên, không được
quyền phát biểu, chỉ lẳng lặng ngồi một bên nhìn thế sự. Rõ ràng là, trong thời
gian Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai có quan hệ thân mật, người ta đã dự liệu
sẵn một kế hoạch nào đó. Nguyễn
Ái Quốc cùng một lúc bị tước
quyền lãnh đạo Đảng và mất vợ. Chuyện đúng sai khoan hãy bàn, nhưng khi nghe một
nhà phân tích nhận định ông “
bị hai lần tủi nhục” thì bản thân người đọc cũng thấy bất bình.
Lời bàn:
Nguyễn Ái Quốc , bí danh P.C.Lin, đến Hội nghị VIIQuốc tế cộng sản với tư cách quan sát viên, không được
phát biểu, từ đầu đến cuối chỉ lẳng lặng ngồi nghe các đồng chí của mình đăng
đàn, trái ngược hẳn với Hội nghị lần thứ V.
Khi ấy, Nguyễn Ái Quốc lấy danh nghĩa Quốc tế cộng sản, vận động các nguyên
thủ quốc gia, một mình thượng đài, ra sức tranh thủ diễn đàn phát biểu chính kiến,
thật là có sự khác nhau giữa hai người. Như trên đã nói, hiện tượng rất không
bình thường trên chỉ có thể giải thích hợp lý nhất là, người tham dự Hội nghị VII QTCS
năm 1935 không phải Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương mang bí danh
P.C.Lin.
3/ Nguyễn Ái Quốc lấy bí danh P.C.Lin trong thời gian
làm việc tại Viện nghiên cứu “Các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Thời gian ấy, Nguyễn Thị Minh Khai và năm học viên đang học trong trường
Đại học Phương Đông. Trong những ngày diễn ra Hội nghị VII Quốc
tế cộng sản , Nguyễn Ái Quốcđã tận tình giúp đỡ sửa
chữa, biên tập văn bản tham luận Hội nghị (bằng tiếng Nga), góp phần làm cho
Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông
Dương hoàn thành nhiệm vụ một
cách xuất sắc khiến Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai thật sự cảm động.
Sau khi tổ chức hôn lễ, công
việc của Lê Hồng Phong vô cùng bận rộn, một trong số đó là lập
kế hoạch trù bị cho Đại hội Thanh niên cộng sản quốc tế làn thứ VI, đồng thời đề cửNguyễn Thị Minh
Khai tham gia với tư cách đại biểu
của phụ nữ của Đảng Cộng sản Đông
Dương. Nguyễn Ái Quốc được mời làm đại biểu dự thính. Ngày bế mạc, Đại
hội tuyên bố,Đảng Cộng sản Đông Dương chính
thức trở thành một chi bộ của Quốc
tế cộng sản. Lê Hồng Phong được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Quốc tế cộng sản . Trong buổi liên hoan giữa Đoàn đại
biểu Đảng cộng sản Pháp và Đoàn đại biêu Đảng
Cộng sản Đông Dương , Nguyễn Thị Minh Khai và Lê HồngPhong cùng song ca một bài do Lê Hồng Phong viết nhạc,Nguyễn Thị Minh Khai đặt lời. ( Nguyệt Tú - “Chị
Minh Khai”, trang 76, 82,83, 89 và 90).
Lời bàn:
Cuốn sách “Chị Minh Khai” của
Nguyệt Tú luôn luôn ẩn giấu mối quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai, đồng thời tô vẽ mối tình giữa Lê Hồng Phongvà Nguyễn Thị Minh Khai. Tuy nhiên sự thực
lịch sử không giống như lời kể trên. Chuyện rắc rối ở đây là, từ Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong (P.C.Lin) đến Nguyễn Thị Minh Khai, ba người lại có
đến bốn thân phận công khai hoạt động.Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong biểu hiện mối tình nồng thắm, với Nguyễn Ái Quốc (P.C.Lin), hai người kính trọng như
khách, xem ra rất hợp lý. Rốt cuộc, P.C.Lin này chính là Hồ Tập Chương cùng Nguyễn Thị Minh Khai đến Mạc Tư Khoa xem như mới quen biết
nhau nên tỏ thái độ kính trọng là hợp lẽ. Với Nguyễn
Ái Quốc, Nguyễn Thị Minh
Khaingoài tình đồng chí còn là tình nghĩa vợ chồng cao đẹp, một người cộng sản
như Nguyễn Thị Minh Khai không thể cầm tay Lê Hồng Phong cùng vui vẻ song ca ngay trước mặt ông chồng
đáng kính, bởi hành vi ấy chính là làm nhục Nguyễn
Ái Quốc…
Hồ Chí Minh và tri kỷ má hồng
– Lâm Y Lan tiểu thư
Hồ sơ về mối tình Hồ Chí Minh
và Lâm Y Lan
Chuyện tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan chủ yếu căn cứ vào ghi
chép của Lương Ích Tân qua bài viết “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm
Y Lan”. Lương Văn Nguyên viết “Thế giới lịch sử Cộng đảng Trung Quốc” năm 2004, đăng
trên nguyệt san “Nhân dân văn trích”, kỳ 12, dài khoảng ba ngàn ba trăm chữ, là
bài viết muộn nhất cung cấp cho bạn đọc tư liệu về chuyện tình ái của Hồ Chí Minh. Đây là tác phẩm thuộc thể
tài tiểu thuyết, từng đoạn, từng đoạn kể về cuộc tình của Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan. Nội dung tác phẩm được thể hiện qua
nhiều chi tiết khá lý thú, làm xúc động lòng người. Chỉ tiếc, các sử liệu được vận dụng,
chỗ thì lắp ghép một cách khiên cưỡng, chỗ lại tập hợp trình bày nhảy cóc, nhất
là đoạn nói về mối tình với Nguyễn Thanh Linh trong những năm 1930. Việc làm
này dường như tác giả có ý đồ tạo ra sự lẫn lộn Hồ Chí Minh với Nguyễn
Ái Quốc , đồng nhất hai người làm
một, tô vẽ ông thành một nhân vật phi thường, mặc dù, trên thực tế, Nguyễn
Thanh Linh chỉ là nhân vật hư cấu. William J. Duiker, trong “Truyện Hồ Chí
Minh”, chương 5 “Quyết chiến tối tiền tuyến”(….. ), trang 554- 555, có những
chi tiết tương đồng với các tư liệu báo chí đã công bố. Từ đó có thể khẳng định,
mối tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan là có thực.
Mối tình của Hồ Chí Minh và
Lâm Y Lan
Từ những năm ba mươi của thế kỷ
trước, để tạo điều kiện cho Hồ
Chí Minh công tác tại Quảng Đông,
Hương Cảng, Trung Cộng đã bố trí một thiếu nữ là Lâm Y Lan đóng giả làm vợ để
giúp đỡ việc sinh hoạt hàng ngày cho ông ta. Không lâu sau, hai người có tình ý
với nhau, nhưng đó là thời kỳ năm 1938 đầy sóng gió, nên cuối cùng mói quan hệ
luyến ái này không đi đến hôn nhân. Lâm Y Lan hoài niệm về mối tình xưa, nhớ
thương Hồ Chí Minh, lâu ngày
không biết còn sống hay đã chết, sức khỏe suy giảm rồi qua đời vào năm 1968. Hồ Chí Minh biết tin, vô cùng đau khổ, một năm sau
cũng tạ thể. Lúc hấp hối ông có nhắc đến tên Lâm Y Lan.
Lời đầu
Mùa đông, Mạc Tư Khoa tuyết
rơi không ngừng. Hồ Chí Minh ở một ga xe bên sườn núi ngoại thành,
dầm mình trong cái lạnh khốc liệt của tiết trời băng giá, nước mặt lã chã rơi
thấm ướt cả lá thư. Bức thư báo tin dữ, người bạn gái thân thiết Nguyễn Thanh
Linh vừa bị giặc sát hại. Ông nghĩ đấy không phải là sự thật, mắt trừng trừng
nhìn vào dòng chữ, đọc đi đọc lại nhiều lần từng chữ một. Không sai, thư viết rất
rõ ràng, Nguyễn Thanh Linh đã bị ngộ hại tại Việt
Nam.
Bạn gái Nguyễn Thanh Linh bị
sát hại
Hồ Chí Minh và Nguyễn Thanh Linh bắt đầu quen nhau vào mùa xuân năm
1930. Năm ấy Hồ Chí Minh đang bôn ba hải ngoại tìm chân lý cách
mạng, trên đường về Việt Namngẫu
nhiên gặp Nguyễn Thanh Linh . Nguyễn Thanh Linh chẳng để ý đến việc gia đình phản
đối, kiên quyết hiến thân cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, truyền bá
ngọn lửa cách mạng, trở thành người bạn thân thiết và trợ thủ đắc lực của Hồ Chí Minh. Tại Việt Nam, Nguyễn Thanh Linh vận động
giới phụ nữ tham gia đấu tranh chống thực dân , đế quốc áp bức bóc lột, trở
thành một cán bộ đảng rất có uy tín. Thời kỳ Hồ
Chí Minh sang Liên Xô học tập
kinh nghiệm cách mạng, do bị một kẻ phản bội khai báo, Nguyễn Thanh
Linh chẳng may bị địch bắt. Đối mặt với những dụ dỗ, truy bức, cô vẫn kiên
trinh bất khuất, đến chết vẫn không chịu cúi đầu. Cuối năm ấy, trong cuộc họp Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí
hội của lưu học sinh Việt Nam, Hồ Chí Minhtuyên bố trước mọi người: "Đồng chí Thanh Linh đã hy sinh
anh dũng nhưng đồng chí vẫn sống mãi trong lòng chúng ta. Dòng máu đỏ của đồng
chí không chảy phí hoài mà nó càng tô thắm ngọn cờ giải phóng dân tộc. Tôi
tuyên bố với thể giới, một khi nước Việt
Nam chưa được giải phóng thì đời
này, kiếp này sẽ không xây dựng gia đình”. Hồ
Chí Minh không thể ngờ, câu nói
trên lại ảnh hưởng đến chuyện hôn nhân sau này. Nó giống như trái núi lớn đè nặng
lên tâm lý, không thể chống đỡ làm ông đau khổ cho đến lúc qua đời.
Trốn tránh truy bắt, ẩn mình ở
Quảng Châu
Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều
động quân đội Quốc dân đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang
Tây Tô, đồng thời ra lệnh cho các
địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu)
cũng không ngoại lệ. Hồ Chí Minh lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây,
trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, Hồ Chí Minh bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn
nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh
ủy Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợHồ
Chí Minh để bảo vệ an toàn cho
ông ta. Khi ấy Hồ Chí Minh trở về nhà trọ thu xếp hành lý tìm đến
nơi ở mới. Vừa vào đến cửa ông sững lại bởi cô gái đứng trước mình có khuôn mặt
hao hao giống Nguyễn Thanh Linh, người yêu của mình đã bị địch xử tử năm nào.
Cô gái không biết làm cách nào giải thích cho đối phương mà chỉ hỏi: “Ông là
HCM tiên sinh phải không? Tôi họ Lâm, thường gọi là Lâm Y Lan”. HCM biết mình
nhận lầm người, vội nói : " Xin lỗi cô Lâm, tôi lầm”.
Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ
làm “vợ” Hồ Chí Minh
Sau đó, Hồ Chí Minh từ từ kể lại mối tình mười năm với
Nguyễn Thanh Linh gợi đến niềm tâm sự, nước mắt bỗng nhiên trào ra. Lâm Y Lan
nghe tâm sự, bất giác cũng cảm như mình lâm vào cảnh ngộ ấy, trong lòng vô cùng
cảm động. Tiếp đó, Tỉnh ủy Quảng
Đông thông báo với Hồ Chí Minh hiện tại Hương Cảng rất phức tạp, đặc
vụ Quốc dân đảng có mặt khắp nơi, không có việc gì
chúng không dám làm, nên dặn đi dặn lại Lâm Y Lan phải bảo vệ Hồ Chí Minh an toàn. Lúc ấy, Đào Chú nửa đùa nửa
thật bảo : “ Các bạn nên nhớ, đến một ngày hai “vợ chồng” trăm tuổi, Y Lan tuyệt
đối không được bỏ rơi “phu quân” mà không quản lý đấy nhé”, làm Lâm Y Lan, vốn
là một tiểu thư chưa chồng, hai má đỏ lựng. Lấy danh nghĩa người “vợ”, Lâm Y
Lan chăm sóc Hồ Chí Minh trong sinh hoạt thường ngày vô cùng tận
tình, chu đáo làm cho Hồ Chí Minh đặc biệt cảm kích, đã có lúc muốn thổ
lộ tình cảm, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi nên trong lòng vẫn trù trừ. Lâm Y
Lan thấy Hồ Chí Minh nói với mình những lời chân thành,
thâm tâm đã có phần ưng ý, nhưng vì là phận nữ nhi, không tiện nói ra. Lúc chia
tay, Hồ Chí Minh ôm lấy Lâm Y Lan, dùng khăn tay lau nước
mắt cho cô : “ Hãy cứng rắn lên, đừng để kẻ thù cười chúng ta mềm yếu”, nói rồi
lấy quyển nhật ký đưa cho Lâm Y Lan: “Tâm sự của tôi đều ở trong này, sẽ cùng
đi với em”.
Trong hoạn nạn thấy sự chân
thành
Ba ngày sau khi Hồ Chí Minh được cứu thoát, Lâm Y Lan nhìn đăm đăm
vào khuôn mặt hốc hác của ông, hỏi: “Chí Minh, sao không đợi muội đến đón?”.
HCM nói: “ Tôi nghĩ, càng về nhanh càng chóng được gặp muội”. Nói rồi Hồ Chí Minh đưa cho Lâm Y Lan một nhành hoa lan:
“Xin tặng muội, chúc mọi sự vui vẻ”. Thấy Lâm Y Lan có vẻ bối rối, Hồ Chí Minh lại nói: “ Muội đã đọc nhật ký chưa?
Lòng tôi luôn tin tưởng hoa lan không bao giờ bị héo”. Lâm Y Lan nhận hoa,
không nén được tình cảm, ngã vào lòng Hồ
Chí Minh.
Những năm năm mươi của thế kỷ
XX, Trung Quốc đại lục đã được giải phóng, lúc này
Lâm Y Lan là cán bộ cao cấp của Tỉnh ủy Quảng
Đông . Hồ Chí Minh trở về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng
chưa hoàn thành. Bấy giờ, Đào Chú là Bí thư Trung ương Cục Hoa Nam kiêm Bí thư
thứ nhất Tỉnh ủy Quảng Đông, thấy
Lâm Y Lan vẫn sống cô đơn đã đứng ra làm mối vài đám nhưng lần nào cũng bị cô
khéo léo từ chối. Lúc ấy Đào Chú không hiểu tâm trạng Lâm Y Lan, sau nhiều lần
cân nhắc, cuối cùng ông hỏi thẳng cô ta: “Giấy không bọc được lửa, hơn nữa, việc
này cũng chẳng có gì là bí mật. Nói thật đi, người ấy là ai?” Lâm Y Lan thong
thả bảo: "Hồ Chí Minh”. Đào
Chú nghe xong thất kinh, mãi một lúc sau mới hỏi lại: “ Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh? Ông ta yêu cô phải
không?”. Lâm Y Lan gật đầu :“ Hồ Chí Minh nói là tôi hãy đợi ông ấy”. Nghe xong,
Đào Chú tự trách mình :” Ôi chao! Chỉ tại ngày ấy tôi hồ đồ giao nhiệm vụ cho
cô, nào ngờ dẫn đến chuyện hai người ở hai phương trời thương nhớ lẫn nhau…”
Không di lưỡng địa tương tư
Lâm Y Lan vẻ mặt rạng rỡ hạnh
phúc, cười khẽ: “Việc này không thể trách đồng chí. Tôi và Hồ Chí Minh hai người đã dốc lòng cùng nhau, hồng
nhạn đưa tin, thế nào cũng có ngày tái ngộ. Huống hồ, tình cảm của hai người đã
là vĩnh cửu, há đâu phải một sớm một chiều (Lưỡng tình nhược thị trường cửu
thời, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ). Tôi tin tưởng tình yêu qua thời gian
đã được thử thách”. Đào Chú chỉ biết xoa tay. Ông đã rõ chuyện, chỉ đợi xem
tình huống phía Việt Nam. Mối
nhân duyên này, có thể nói, sự thành công là không dám chắc. Ông hiểu rõ mình
gánh trọng trách, hơi thiếu cẩn trọng, rất có thể sẽ gây nên bi kịch di hận
ngàn thu.
Dịp may đã đến. Đó là chuyến
thăm Trung Quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ít năm sau đó. Đào Chú bèn thỉnh cầu
Mao Trạch Đông sắp xếp cho ông và nữ cố nhân Quảng Đông gặp mặt. Mao Chủ tịch lập
tức gọi điện cho Bí thư Tỉnh ủy Quảng
Đông Đào Chú, Lâm Y Lan và những ủy
viên Thường vụ khác về Bắc Kinh. Lâm Y Lan nhận được tin báo vui mừng đến phát
cuồng. Hồ Chí Minh kết thúc chuyến thămTrung Quốc sắp lên máy bay về nước, bỗng nhiên
ông nhìn thấy Lâm Y Lan vội sải bước đến gần cô, hai tay nắm chặt không nói nên
lời. Hai người nhìn nhau rất lâu, lòng rưng rưng xúc động trào nước mắt. Trước
lúc phi cơ khởi trình, Lâm Y Lan lấy cuốn nhật ký ngày nào đưa trả lại Hồ Chí Minh , nhẹ nhàng bảo: “Không có anh bên cạnh,
lâu rồi tôi không ghi nhật ký, xin gửi lại anh”.
Ủy thác Đào Chú làm mối
Vào một ngày đẹp trời năm
1958, trên bờ sông ở Hà Nội, hai ông già lặng lẽ buông cần câu. Họ chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú (xem ảnh phía dưới). Lúc ấy Hồ Chí Minhthần sắc có vẻ khác thường,
trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có
câu ‘ Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan biết nhau đã hơn
hai mươi năm, vì sự nghiệp cách mạng đành tạm gác tình riêng. Đến nay chúng tôi
cũng đã có tuổi, muốn đón Lâm Y Lan sang Hà Nội, bí mật tổ chức hôn lễ để thỏa
ý nguyện từ những năm trước”. Sau khi về nước, Đào Chú bay đến Bắc Kinh báo cáo
sự việc với Trung ương Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Chủ tịch Mao Trạch Đông chuyển đạt ý nguyện của Hồ Chí Minh đến Tổng lý Chu Ân Lai. Tại Phủ Thủ tướng
Quốc vụ viện, các vị lãnh đạo đều vô cùng kinh ngạc.
Chuyện hôn nhân của Hồ Chí
Minh không nhỏ
Mao chủ tịch trầm ngâm một lúc
rồi nói: “Nói cho cùng, chính là
chúng ta đề xướng ra đoạn tình duyên này, hôn nhân tự chủ, nên đáp ứng nguyện vọng
của Hồ Chí Minh, nhưng đây không phải là việc nhỏ, chớ xem thường”.
Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao
động Việt Nam
Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên
là các Ủy viên Bộ Chính trị. Sự
việc được đưa ra nhưng mọi
người đều im lặng không nói. Cuối cùng Hồ
Chí Minh đập bàn, đứng lên: “Tôi
chịu đựng đủ rồi. Thật tình tôi không nghĩ là sẽ được gặp lại người ta. Tôi có
quyền quyết định việc riêng của mình, vì vậy, đề nghị các đồng chí không nên
thuyết phục nữa”. Lê Duẩn tuy bất bình nhưng chưa dám gây căng thẳng, vẫn bình
tĩnh nói: “Thưa Bác! Bác không nên quá xúc động, phải tính kế lâu dài, nên cân
nhắc kỹ rồi hãy hành động. Chúng tôi can ngăn lúc này là vì lo cho Bác. Bác từng
nói 'Việt Nam chưa giải phóng thì
đời nay, kiếp này tôi không xây dựng gia đình'. Câu nói ấy có ảnh hưởng rất lớn.
Một khi Bác làm trái lời thề thì ý nghĩa của sự nghiệp thần thánh Giải phóng miền
Nam cũng như uy tín 'cha già dân
tộc' của Bác sẽ bị tổn thương,
không những thế uy tín của Đảng ta trước phe Xã
hội chủ nghĩa cũng như cộng đồng
quốc tế cũng bị giảm sút”. Thực ra tâm trạng Lê Duẩn vô cùng mâu thuẫn, ông ta
không muốn ép Hồ Chí Minh, nhưng
vì ở cương vị Bí thư thứ nhất nên bắt buộc phải tỏ thái độ cứng rắn.
Thiểu số phục tùng đa số
Hồ Chí Minh thấy Lê Duẩn nhất quyết can thiệp vào
hạnh phúc riêng tư của mình, không nói nữa mà bảo: “Theo nguyên tắc, thiểu số
phục tùng đa số, đề nghị các đồng chí giơ tay biểu quyết”. Nói rồi ông đưa mắt
nhìn sang hai bên. Ý kiến tán thành và phản đối ngang nhau, riêng Lê Duẩn vẫn
ngồi im. Mọi người đều chăm chú theo dõi thái độ của Bí thư thứ nhất. Lúc ấy Lê Duẩn mới từ từ nâng tay phải, nhưng
đến nửa chừng lại đột nhiên bỏ thõng xuống, thở dài nói: “Tôi không thể làm mất
uy tín của Bác”. Điều làm Lê Duẩn giật mình là, Hồ Chí Minh không nổi trận lôi đình , trái lại,
ông chỉ cười nhạt rồi thong thả rời cuộc họp bước ra ngoài.
Bi kịch tình yêu kết thúc
Tại bệnh viện Quảng Châu, Lâm
Y Lan trông ngóng Hồ Chí Minh nhưng chỉ nhận được bức thư vài dòng
ngắn ngủi: “Y Lan thân mến! Chúng ta vô duyên không thể tái hợp. Muội đã nghe nói
đến tình yêu theo kiểu Platonic chưa? Tuy không được ở bên nhau nhưng tâm hồn
hai ta mãi mãi dung hòa nhất thể”. Lâm Y Lan cầm lá thư ném xuống bệ cửa sổ,
nhìn theo lá thư vờn bay theo gió, hai dòng lệ lã chã tuôn rơi. Sau đó Lâm Y
Lan viết thư hồi đáp Hồ Chí Minh,
trong thư, bà sử dụng hai câu trong “Trường hận ca” của Bạch Cư Dị “ Trên trời xin làm chim chắp cánh,
dưới đất nguyện làm cây liền cành. Trời cao đất dày rồi cũng tận, tình này vĩnh viễn mãi không nguôi”
( Tại thiên nguyện vi tỷ dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi; thiên trường
địa cửu hữu tận thời, thử tình miên miên vô tuyệt kỳ). Bà chuyển chữ “hận”
cải thành chữ “tình” để chứng tỏ tấm lòng thủy chung như nhất của mình đối
vớiHồ Chí Minh. Bức thư bất đắc dĩ của Hồ
Chí Minh là một đòn nặng nề đánh
vào tinh thần Lâm Y Lan khiến bà bị suy sụp rồi mắc trọng bệnh, năm 1968 thì
qua đời. Hồ Chí Minh nghe tin người yêu mất thì vô cùng ân
hận và thương cảm. Sau đấy một năm, vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, lúc hừng đông, Hồ Chí Minh bỗng nhiên thở dài, lúc hấp hối ông đã
gọi tên Lâm Y Lan.
Trở lên là câu chuyện tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan. Chuyện ly này là do
Lương Ích Tân viết trong tác phẩm “Mối tình nồng cháy của Hồ Chí Minh và Lâm Y
Lan”.
Sự thật về mối tình của Lâm Y
Lan
Trong “Truyện Hồ Chí Minh”,
trang 554-555, William J.Duiker viết “Tháng 8 năm 1965, Đào Chú thăm Hà Nội, Hồ Chí Minh có nhờ ông làm mối cho một phụ nữ trẻ,
người Quảng Đông trước đây từng quen biết nhau. Khi trở lại Trung Quốc, Đào Chú báo cáo với Chu Ân
Lai lời thỉnh cầu trên. Chu Ân Lai bèn cùng với lãnh đạo Bắc Việt thương thảo
việc này nhưng cuối cùng không có kết quả. William J. Duiker viết đoạn này, nếu
đem đối chiếu với các bài “Mối tình nồng cháy củaHồ Chí Minh và Lâm Y Lan”, “Ủy thác Đào Chú Làm mối”,
“Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam” v.v…thì các chương mục gần như
có nội dung thống nhất. Chi tiết Hồ
Chí Minh yêu cầu Đào Chú tác
thành với một người phụ nữ Quảng Đông để làm bạn là xác thực với những sự việc
báo chí dã đưa tin. William J.Duiker
viết tại chương này (Chú thích 54 trang
668) chỉ rõ nguồn gốc là "Câu
đố về Chu Đào"của tác giả Quách Trinh, đăng tải trên tạp chí “Văn học quân
sự Tây Nam”, kỳ 72, Thành Đô, 1995). Trong phần chú giải phụ thêm, William
J. Duiker có một đoạn như sau: “Từ Cách mạng văn hóa cho đến lúc trước khi bị
thanh toán là lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng Đông, bà và HCM trước đây từng rất thân
thiết nhau. Tôi căn cứ vào văn bản suy đoán, sự kiện này xảy ra vào mùa xuân hoặc
mùa hạ năm 1966”.
Trong bài viết “Mối tình nồng
cháy giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”, ở phần “Trốn tránh truy
bắt, ẩn mình ở Quảng Châu”, có đoạn: “ Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động
quân đội Quốc dân đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang
Tây Tô, đồng thời ra lệnh cho các
địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu)
cũng không ngoại lệ. Hồ Chí Minh lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây,
trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, Hồ Chí Minhbị đặc vụ truy đuổi ráo riết,
không chốn nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ.
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng
giả làm vợ Hồ Chí Minh để bảo vệ an toàn cho ông ta”. Ở mục:
“Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ” Hồ Chí Minh” và “ Trong hoạn nạn thấy sự
chân thành” đều có viết: “ Không lâu sau, do một kẻ phản bội khai báo, Hồ Chí Minh bị bắt nhưng ba ngày sau lại được cứu
thoát”.
Những phần ghi chép trên nói
rõ là, vào đầu năm 1930,Hồ Chí Minh đúng
là bị bắt ở Quảng Châu. Đối chiếu với “Hồi ức Trịnh Siêu Lân” về sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu vào năm 1931, đồng thời so sánh với
bài viết “Hồ Tập Chương, đến từ Miêu Lật Đài Loan bị bắt ở Quảng Châu, giam tại
nhà ngục Nam Thạch Đầu trên “Đài Loan nhật nhật tân báo” thì thấy rất rõ ràng,
nhân vật nam chính trong bài “ Mối tình nồng cháy giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” chính là Hồ Tập Chương đến
từ Miêu Lật Đài Loan (Xem lại Thiên
II“Hồ Chí Minh bị bắt tại Quảng Châu”, và Thiên
IV “Những năm tháng phiêu bạt”
(Phiêu bạt lưu lãng đích tuế nguyệt) đăng tải trên “Đài Loan nhật nhật tân
báo”.
Theo nhận định của William J.
Duiker, các bài viết “Nhờ Đào Chú làm mối” và “Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh
không nhỏ” của tác giả Lương Văn là xác thực. Nhìn lại cuộc đời hoạt động chính
trị thăng trầm của Đào Chú cũng có thể gián tiếp khẳng định, Chu Đào và Lâm Y
Lan là một người. Đào Chú lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng
Đông từ mùa xuân năm 1951 đến năm
1966, từng là “phong cương đại lại” rồi nhảy nhanh lên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện,
Bộ trưởng Tuyên truyền, Cố vấn Tiểu tổ Cách mạng Văn hóa, thứ bậc chỉ xếp sau
Mao, Lâm, Chu, ngồi ghế thứ tư trong Thường vụ Bộ Chính trị, có thể nói vận số vô
cùng hanh thông. Thế nhưng, tai vạ bỗng đâu ập đến, trong Đại Cách mạng Văn
hóa, Đào Chú bị “Lũ bốn tên” vu cáo thuộc phe “Bảo hoàng”. Chúng xúi giục Hồng
vệ binh đấu tố, hạ nhục ông cho đến lúc thân tàn ma dại rồi chết một cách tức
tưởi vào ngày 30 tháng 11 năm 1969. Cùng thời kỳ sóng gió ấy, Chu Đào bị hạ
phóng ra biên giới Tây Nam.
Theo nội dung các bài “ Hội
nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam” và “Chuyện hôn nhân của Hồ Chí Minh
không nhỏ”, có thể thấy một sự thực là, Cộng đảng Việt Nam đã sử dụng câu nói “ Một ngày đất nước
chưa độc lập, tôi quyết không kết hôn” làm cái cớ gây áp lực mạnh lên ý nguyện
xây dựng gia đình của Hồ Chí
Minh.
Chuyện tình giữa Hồ Chí Minh
và Đỗ Thị Lạc
Căn cứ vào “Thê thiếp và
nhân tình của Hồ Chí Minh” của “Lĩnh Nam di dân”, thì Hồ Chí Minh có bốn người phụ nữ trong các thời kỳ
khác nhau. Người vợ đầu là Tăng Tuyết Minh, tiếp theo là Nguyễn Thị Minh Khai,
Đỗ Thị Lạc và cuối cùng là Nông Thị Xuân. Mối tình với Đỗ Thị Lạc tác giả viết: “ Sau khi ra tù, Hồ Chí Minh được tướng Trương Phát Khuê vàtướng Tiêu Văn tín nhiệm, được bổ sung làm Ủy viên dự khuyết Việt
Nam Cách mạng Đồng minh hội, hoạt
động rất có uy tín. Không lâu sau, được sự đồng ý của các tướng lĩnh Quốc dân Đảng, Hồ Chí Minh mang theo mười tám người trở về Bắc Việt Nam sau khi kết thúc khóa huấn luyện cán bộ.
Một trong mười tám người theo Hồ
Chí Minh trở về là Đỗ Thị Lạc,
người phụ nữ duy nhất trong Đoàn thường được mọi người goi là “chị Thuận”. Nhân
thân Đỗ Thị Lạc không rõ, người
ta chỉ biết cô này từ năm 1942 tại Liễu Châu, Quảng Tây, với tư cách học viên
Ban Huấn luyện quân sự. Trở về Cao Bằng, Việt Bắc, Đỗ Thị Lạc và Hồ
Chí Minh sống chung với nhau một
thời gian tại vùng Khuê Nam (?!), phụ trách công tác dân vận và thiếu nhi. Sử
gia Trần Trọng Kim, trong hồi ký “Một cơn gió bụi”, viết: “Đỗ Thị Lạc có với Hồ Chí Minh một người con gái. Tuy nhiên, sau một
thời gian sống chung với nhau ở Khuê Nam, Hồ
Chí Minh dấn thân vào cao trào
cách mạng, không bao giờ còn trở lại với Đỗ Thị Lạc nữa”.
Căn cứ vào các tư liệu đã tra
cứu được, vào thời kỳ Hồ Chí Minh đem theo mười tám cán bộ về Việt Bắc
thì người phụ nữ có tên Đỗ Thị Lạc là
có thật. Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính, trong cuốn “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc”, trang
194 đến 206 viết: “Ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ
Chí Minh được phóng thích tại
Liễu Châu, rất được Tư lệnh Đệ tứ chiến khu Trương Phát Khuê tín nhiệm, giao nhiệm
vụ cải tổ Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội. Hồ
Chí Minh đề nghị với Trương Phát
Khuê ý định về Việt Nam hoạt động, đồng thời chuyển giao cho
ông bản đề cương kế hoạch “Nhập Việt công tác” được khởi thảo với bốn mục tiêu
lớn. Căn cứ vào kế hoạch đại cương, Hồ
Chí Minh tự tuyển chọn mười tám
thanh niên cốt cán trở về Việt
Nam làm công việc huấn luyện nhiệm
vụ cách mạng. Danh tính của mười tám người như sau : Dương Văn Lộc, Lê Nguyên,
Vi Văn Tôn, Hoàng Nhân, Hoàng Quảng Triều, Nông Kim Thành, Hoàng Kim Vận, Hoàng
Thanh Thủy, Phạm Văn Minh, Hà Hiến Minh, Hoàng Sỹ Vinh, Lê Văn Tiền, Nông Văn
Mưu, Dương Văn Lễ, Hoàng Gia Tiên, Đỗ Trọng Viện, Trương Hữu Chí ( đều thuộc Tổng
đội công tác chiến địa) và Đỗ Thị Lạc ( thuộc Đội công tác chính trị biên giới).
Lại căn cứ vào “Hồ Chí Minh tại Liễu Châu” do Quảng Tây nhân dân xuất bản xã
phát hành năm 2005, trang 103, có đoạn viết: “Từ 1943 đến 1944, dưới chân núi
Cao Lượng, Liễu Châu, nơi Ban huấn luyện cán bộ mở lớp học, HCM thường đến giảng
bài. Trong số học viên có một phụ nữ là Đỗ Thị Loan, quê tại thị trấn Bắc Môn,
huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, bị bệnh, chữa không khỏi, chết tại Liễu Châu, mai
táng dưới chân núi Cao Lượng, bia mộ ghi ngày sinh, ngày mất và quê quán bằng
Trung văn”. Có thể phỏng đoán, Đỗ Thị Lạc, Đỗ Lạc, Đỗ Thị Loan, danh tính ba lần
chuyển dịch không giống nhau nhưng có lẽ vẫn cùng là một người.
Trần Trọng Kim viết: “Nghe tin
Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ
Chí Minh nên có thể xem chuyện
này là có thật”. Căn cứ vào “Hồ
Chí Minh và Trung Quốc” trang 164 của giáo sư Hoàng Tranh có đoạn ghi chép về
“Hồ Chí Minh và Đỗ Lệ Hoa”, tôi phỏng đoán, Đỗ Lệ Hoa chính là Đỗ Thị Lạc. Chuyện
như sau: “Tháng 8 năm 1962, Hồ
Chí Minh đếnTrung Quốc, ở lại một
thời gian, đã từng đến thăm phong cảnh nổi tiếng ‘Thạch Lâm” ở Vân Nam. Đoàn
Văn công Vân Nam có nữ ca sĩ hát giọng nữ cao Đỗ Lệ Hoa tháp tùng chủ tịch Hồ Chí Minh tham quan. Bên cạnh Hồ Chí Minh, Đỗ tiểu thư đã có những
giây phút vô cùng hạnh phúc. Trước đó một năm, Hồ Chí Minh đã từng quen biết Đỗ Lệ Hoa . Đó là
năm 1961, Hồ Chí Minh cùng Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam sang thăm Trung Quốc. Một ngày, tại Hoài Nhân ĐườngBắc
Kinh, Đoàn nghệ thuật chuẩn bị thăm Miến Điện, biểu diễn một buổi dành riêng
cho các vị khách Việt Nam. Sau buổi
biểu diễn, Hồ Chí Minh đặc biệt đề nghị Đỗ Lệ Hoa cùng ông và
chủ tịch Mao Trạch Đông chụp chung một kiểu ảnh. Hồ Chí Minh cười hiền từ nhìn Đỗ Lệ Hoa rất lâu như muốn lưu giữ mãi hình ảnh
của cô. Lần này, khi đến nhà khách, Đỗ Lệ Hoa được thông báo, Hồ Chí Minh mời vợ chồng cô đến Thạch Lâm tham
quan thắng cảnh. Đỗ Lệ Hoa vô cùng phấn chấn, lòng thầm nghĩ, đã một năm qua rồi,
không biết Hồ Chí Minhgiờ đây thế
nào, cô hận là không thể lập tức chạy ngay đến bên Hồ Chủ tịch. Khi Đỗ Lệ Hoa vừa
đến nhà khách Thạch Lâm, Hồ Chí
Minh đã chờ sẵn ở cửa trước, vừa
nhìn thấy cô văn công, ông vội bước ra, thân mật gọi: “Tiểu thư Lệ Hoa, hoan
nghênh cô đến, có nhớ năm trước chúng ta gặp nhau ở Bắc Kinh không?”. Đỗ Lệ
Hoa phấn khởi nói: “Nhớ, Nhớ
ạ”, rồi trân trọng trao tấm ảnh kỷ niệm đã được phóng to cho Hồ Chí Minh”.
Từ việc ĐTL chết, độ tuổi của
ĐLH, ĐLH đứng giữa MTĐ và HCM chụp ảnh kỷ niệm, đến cuộc gặp gỡ và tình cảm đặc
biệt giữa ĐLH và HCM ở khu nghỉ mát Thạc Lâm, làm cho người ta khó nói ĐLH
không phải là người tình của HCM.
Mối tình của Hồ Chí Minh và
Nông Thị Xuân
Trần Quốc Hoàn vì vì có công
trong việc trấn áp các phần tử phản cách mạng mà thành danh, năm 1953 được bổ
nhiệm làm Bộ trưởng Công an. Năm 1955, một thiếu nữ là Nông Thị Xuân từ vùng
biên giới tỉnh Cao Bằng được đưa về Hà Nội. Cô này khá xinh đẹp được chủ tịch Hồ Chí Minh để ý nên Ban Bảo vệ sức khỏe Trung
ương đã bố trí làm y tá bên cạnh ông Hồ. Một năm sau, Nông Thị Xuân sinh với Hồ Chí Minh một bé trai. Đứa bé được bí mật gửi
nuôi vài nơi, nhưng cuối cùng, thư ký riêng của Hồ Chí Minh là Vũ Kỳ đưa về nhà nhận làm con. Vào
một ngày năm 1957, người ta phát hiện Nông Thị Xuân bị tai nạn ô tô chết bên đường chân Dốc Chèm. Không lâu sau, hai người em
họ của cô Xuân cũng bị đột tử. Khi mới xảy ra sự kiện này rất ít người biết
chuyện, nhưng nhiều năm sau, người chồng chưa cưới của một trong hai thiếu nữ,
đã viết thư gửi lên Quốc hội, tố cáo Trần Quốc Hoàn cưỡng dâm Nông Thị
Xuân rồi sát hại cô bằng một
vụ tai nạn được công an dàn dựng. Anh ta nói rõ, Trần Quốc Hoàn sợ hai người em
họ của Nông Thị Xuân tố cáo
tội ác nên hắn đã cho mật vụ thủ tiêu cả hai chị em. Tất nhiên, sự kiện
này bị ỉm đi và cũng không
có bất cứ phiên tòa nào đủ bản lĩnh đứng ra thụ lý vụ án trên. Trần Quốc Hoàn xem như vô can, tại Đại
hội III, y còn được bầu làm Ủy viên dự khuyếtBộ Chính trị, những tin tức về vụ
giết người bịt miệng dã man này đã được các cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam biết rõ, có điều tất cả đều ngậm miệng,
bởi họ không lạ gì Cảnh Con (tên tục của Trần Quốc Hoàn ) vốn xuất thân từ dân
đao búa, đã từng làm đủ nghề, từ cầm cờ đám ma, lưu manh trộm cắp đến lừa thầy
phản bạn. Hồ Chí Minh có biết hay
không sự kiện động trời này, mọi người đều không dám khẳng định, cho dù, ông mới
là “chính danh thủ phạm” của vụ án thảm khốc cướp đi mạng sống của ba thiếu nữ
xinh đẹp, vô tội.
Mối tình của Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân được William J. Duiker ghi chép tại
chương 9 “ Giữa hai lần chiến dịch”, trang 505-506 trong tác phẩm “Truyện Hồ
Chí Minh”. Phần chú thích từ trang 63 đến 660, nội dung dẫn từ “Đêm giữa ban
ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên (con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, từng là thư ký riêng
cho Hồ Chí Minh thời kỳ 1946-1955). Nguyên văn bản tố
cáo tội ác Trần Quốc Hoàn của vị hôn phu cô Nguyễn Thị Vàng đăng tải trong “Việt Nam lục”, mùa
thu, tháng tám, năm 1997, trang
8-11.
Trong “Thê thiếp và nhân tình
của Hồ Chí Minh” của “ Lĩnh Nam
di dân” cũng ghi chép về mối quan hệ luyến ái giữaHồ Chí Minh và Nông Thị Xuân: “Ngày 20 tháng bảy năm
1954, sau Hiệp định Genève, Hồ
Chí Minh trở về Hà Nội đảm nhiệm
chức Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm
1955, Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương tuyển một thiếu nữ thuộc thành phần gia
đình cách mạng miền núi đưa về Hà Nội, phục vụ sinh hoạt cho Hồ Chí Minh. Cô gái là Nông Thị Xuân ,
dân tộc Nùng ( một chi nhánh của người Tráng Quảng Tây Trung Quốc, Việt Nam gọi là Nùng), nhà ở thôn Hà Ma, xã Hồng
Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Lúc ấy Hồ
Chí Minh đã 65, Nông Thị
Xuân mới gần 22. Ít lâu
sau, hai cô khác, một tên Vàng, một tên Nguyệt là con người cậu Nông Thị Xuân
cũng được chọn đưa về Hà Nội. Ba
cô cùng ở trên gác hai ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông Nhuộm. Vì để mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân không bị tiết lộ, mỗi
lần cô Xuân đến Phủ Chủ tịch đều được Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn cho xe đến
đón”.
Những câu chuyện “Hồ Chí Minh
và Đỗ Thị Lạc”, “ Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân”, cùng “Chuyện tình ái và những người
con sinh ra trong bóng tối”, (cho đến nay, dân gian vẫn lưu truyền, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh là con rơi của Hồ Chí Minh) cũng như thân phận thật Hồ Chí Minh và Nguyễn
Ái Quốc , vẫn còn là những bí mật,
chưa có câu trả lời thỏa đáng. Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân , thời gian ghi chép,
địa điểm, nội dung, nguồn gốc tin tức…sự thật chỉ có một mà sự tô vẽ, phóng đại
thì rất nhiều bởi người đời làm cho sự việc ngày càng trở nên phức tạp, khó xác
định chân tướng.
Tổng kết về hôn nhân và tình
ái trong cuộc đời Hồ Chí Minh
Khảo cứu về hôn nhân, tình ái
của Nguyễn Ái Quốc vàHồ Chí Minh trong vô vàn sự kiện cũng như mối quan
hệ phức tạp, phải nói rất khó khăn và tốn nhiều công sức. Tuy nhiên , cần phải
tin chắc một điều, Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minhkhông phải là một người, cho nên chuyện hôn nhân và tình ái của họ cũng
khác nhau. Trong khi tra cứu hồ sơ, tìm hiểu manh mối qua các nguồn tư liệu, (
người viết) cần có thái độ khách quan, tôn trọng chứng cứ mới tìm ra được sự thật
trong mớ tài liệu hỗn độn do lịch sử để lại, về quan hệ hôn nhân, tình ái của
nhân vật đặc biệt này.
Trước hết, cần phân biệt chuyện
hôn nhân tình ái củaNguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Ái Quốc vớiNguyễn Thị Minh Khai khác với hôn nhân tình ái giữa Hồ Chí Minh với Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh với Nông Thị Xuân , Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan. Từ đó có thể rút ra kết
luận, quan hệ tình ái giữa Nguyễn
Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Ái Quốcvà Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai đều hình thành
trong đấu tranh cách mạng một cách chân tình, nồng nhiệt. Những cuộc tình bắt
nguồn từ khói lửa chiến loạn này rất đáng được ca ngợi, không cần phải giấu diếm,
càng không nhất thiết có thái độ bôi nhọ.
Tình ái giữa Hồ
Chí Minh và Đỗ
Thị Lạc, Hồ
Chí Minh và Nông Thị Xuân , Hồ
Chí Minh và Lâm Y Lan, trong đó hàm chứa những
nỗi đau triền miên làm người đọc cảm động, tỏ thái độ đồng tình, đồng thời phản
đối chiến tranh, phản đối bạo lực. Hy vọng rằng những tình cảm nam nữ chân
thành này sớm được làm sáng tỏ để nhân gian có cái nhìn đúng đắn về nhân vật
huyền thoại Hồ Chí Minh.
Mùa hè năm 1959, Đảng
Cộng sản Trung Quốc họp HộiBộ
Chính trị mở rộng tại Lư Sơn, cũng là lúc Hồ
Chí Minh đến thăm Trung
Quốc với tư cách cá nhân. Chiều ngày 8 thángmười, Lưu Thiếu Kỳ
cùng Vương Quang Mỹ, Chu Đức cùng Khang Khắc Thanh, Chu Ân Lai cùng Đặng Dĩnh
Siêu, Lý Phú Xuân cùng Thái Sướng đến biệt thự 394. Hồ Chí Minh thấy nhiều bạn bè cũ đến thăm, chợt
cao hứng hỏi Đặng Dĩnh Siêu: “Tiểu Siêu, nhiều khách quý thế này, hôm nay tôi
phải lấy gì chiêu đãi?”. Một tiếng “Tiểu Siêu” làm Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu
nhớ lại một thời đã qua. Dịp ấy vào năm 1925, Nguyễn
Ái Quốc vừa từ Liên Xô về Quảng
Châu, biết tin Chu Ân lai vừa được bổ nhiệm là Hiệu trưởng Trường Quân sự Hoàng
Phố, ông ta đã đến tận phòng ở của hai người chúc mừng. Lúc ấy, Chu Ân Lại gọi
vào trong nhà : “Tiểu Siêu, mang đường ra đây”. Đã hơn ba mươi năm, Hồ Chí Minh đã trở thành ông già “cổ lai hy”, từ một
chí sĩ vong quốc đến người đứng đầu nhà nướcViệt Nam, tất cả dường như chỉ mới
hôm qua. Đặng Dĩnh Siêu đón tiếp Hồ
Chí Minh, ánh mắt tươi rói, cười bảo: “Pha cà phê”.
Chiều ngày 12 tháng tám, vào lúc 5 giờ, Dương Thượng Côn cùng
Vương Giá Tường đến biệt thự 394 thăm Hồ Chí Minh. Một lúc sau có tiếng phụ nữ ồn
ào từ ngoài vọng vào. Hồ Chí Minh quay đầu nhìn ra, chính là đội ngũ “nương tử
quân” “giá đáo” gồm Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu, Khang Khắc Thanh, Vương Quang Mỹ,
ngoài ra còn một vài người chưa quen biết. Mọi người mời Hồ Chí Minh ở lại Lư
Sơn thêm ít ngày.
- Được thôi, sau này Việt
Nam thống nhất tôi sẽ sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm.
- Chúng tôi không mời riêng một
mình Chủ tịch ở lại đâu nhé! – Thái Sướng nói giọng đầy ẩn ý.
- Đương nhiên, tôi biết, vì thế
, tôi sẽ mời một số đồng bào…
- Không đâu, chỉ đề nghị Chủ tịch
cùng phu nhân đến thôi.
Hồ Chí Minh cười, chậm rãi nói:
- Được thôi, nhờ Tiểu Siêu đề
đạt ý kiến với Hội Phụ nữ, không được thì phải đền đấy.
- Đúng vậy, Chủ tịch nên chọn
một người vợ cách mạng, chẳng nên bắt đền chị Đặng.
Các bà khách chẳng giữ ý tứ
gì, nói năng thoải mái, cười khanh khách vang khắp nhà. Hồ Chí Minh luôn sống độc thân. Nhiều năm qua, Việt Nam và Trung
Quốc quan tâm đến tình trạng hôn
nhân của ông không ít, nhưng có lẽ, ngay từ thờ trai trẻ, ông đã chủ tâm lập
chí, đất nước chưa độc lập, thì chưa thành gia thất chăng?
Các “nữ đồng bào” vẫn vui vẻ
cười đùa :
- Lần sau Chủ tịch đến đây chị
em chúng tôi mong được ăn kẹo cưới.
Hồ Chí Minh đứng lên, vẫy tay gọi vào
trong:
- Mời mang kẹo ra đây chiêu
đãi khách quý
- Loại kẹo này chúng tôi không
ăn.
- Vậy xin mời các phu nhân
dùng cà phê.
- Cà phê cũng không uống.
Hồ Chí Minh cười :
- Vậy tôi đọc một bài thơ được
không?
- Không yêu cầu Chủ tịch làm
thơ. – Các vị khách đều biết Hồ Chí Minh sành làm thơ nên mới nói đùa vậy.
Hồ Chí Minh là một người có tính cách đặc
biệt, ông nhẹ nhàng nói, thời kỳ năm 1940, cơ cấu ban lãnh đạo cách mạngViệt Nam được thành lập tại Côn Minh, để
cổ vũ quần chúng, tôi có làm một số “du thi”, xin đọc một bài bài để các nữ đồng
chí nghe:
Tam tứ niên lai vọng đoạn trường
Niệm lang lưu lạc tại tha
hương
Đồng tâm kết phát thùy thiếp
kiên
Cửu biệt lệ lưu thấp lang diện
Quốc hận gia sầu lang vật vong
Gia thường tỏa sự thiếp toàn
đương
Đãi lang diệt địch quy lai nhật
Huề thủ đoàn viên lạc điền
trang.
Tạm dịch nghĩa:
Ba bốn năm nay trông ngóng đến
đứt ruột
Nhớ chàng lưu lạc nơi quê người
Dải tóc kết đồng tâm rủ xuống
vai thiếp
Dòng lệ khi từ biệt thấm ướt mặt
chàng
Nợ nước thù nhà chàng không
quên
Công việc ở nhà thiếp gánh vác
Đợi ngày chàng diệt địch trở về
Dắt tay nhau vui vẻ sống cảnh
điền viên.
Các phu nhân chăm chú nghe Hồ
Chí Minh đọc từng câu thơ với tâm trạng vô cùng
xúc động. Ông biểu thị tình cảm sau sắc qua từng ngữ điệu, khiến các vị khách,
sau khi rời biệt thự 394 lòng đầy cảm thán: “Nếu như Việt Nam sớm độc lập, thống nhất, Hồ Chí Minh nhất định sẽ là người chồng mẫu mực, hết
lòng thương yêu vợ”. Trước lúc chia tay, các phu nhân còn tranh nhau đứng gần Hồ Chí Minh chụp ảnh kỷ niệm làm Dương Thượng Côn
và Vương Giá Tường phải bật cười”.
Bài viết trên là căn cứ vào “Hồ
sơ Lư Sơn” của Mã Xã Hương, chương 4 “ Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, do Nhân
dân xuất bản xã ấn hành tháng năm năm 2006. Căn cứ văn bản trên, tôi đặc
biệt nghi ngờ Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu. Có một tấm ảnh Hồ Chí Minh cầm tay Đặng dĩnh Siêu và Thái Sướng
cười giữa một đoạn đường núi được Han
Suyin chụp, Trương Liên Khang dịch trong cuốn “ Chu Ân Lai và Trung Quốc hiện đại”,
trang 314. “Hồ sơ Lư Sơn, Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, kèm theo tấm ảnh, Hồ Chí Minhđứng giữa, bên phải cầm tay
Đặng Dĩnh Siêu, bên trái cầm tay Thái Sướng, ba người tỏ ra rất thân mật (xem ảnh
dưới). Tôi không tin việc Hồ Chí
Minh, với tư cách Chủ tịch, lấy quốc gia làm trọng, vậy mà lại gọi phu nhân của
Chu Ân Lai bằng cái tên “Tiểu Siêu”, Đặng Dĩnh Siêu chẳng những không phật ý mà
còn vui vẻ mỉm cười. Lại nữa, Hồ
Chí Minh trả lời các mệnh phụ phu
nhân “Việt Nam thống nhất tôi sẽ
sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm”. Thái Sướng nói giọng đầy ẩn ý: “Chúng
tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé!”. Những lời đối đáp có
tính cợt nhả ấy đều vượt qua nghi lễ ngoại giao, thậm chí vượt qua cả tình cảm
đồng chí, nhất là, khi ấy Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng lại là cán bộ cao cấp lãnh đạo Hội Phụ
nữ Trung Quốc. Chuyện các vị nữ
khách đề nghị Hồ Chí Minh đọc thơ tình cũng rất khó xảy ra. Người
viết không tin là giữa Hồ Chí
Minh và các phu nhân có bất kỳ mối
quan hệ tình cảm mờ ám nào. Tôi đồ rằng, trong số các mệnh phụ phu nhân đến biệt
thự 394 hôm ấy, có người ngấm ngầm muốn công khai bí mật thân phận thật của Hồ Chí Minh trước bàn dân thiên hạ. Chính vì vậy,
qua những lời nói khá tình cảm của Hồ
Chí Minh và Đặng Dĩnh Siêu, làm
tác giả Bùi Tín hiểu lầm là
hai người đã từng yêu nhau.
Trở lại năm 1926, Hồ
Chí Minh và Tăng Tuyết Minhchính thức cử hành hôn lễ tại Quảng Châu, Đặng Dĩnh Siêu,
Thái Sướng từng là người làm mối và chủ trì. Năm 1958, xẩy ra vụ “Tăng Tuyết
Minh hôn nhân xung đột song bào án kiện” (Vụ án kép những mâu thuẫn hôn nhân của
Tăng Tuyết Minh”, Thái Sướng phải đứng ra giải quyết mới dẹp được sóng gió.
Cũng năm 1958, Hồ Chí Minh vì muốn hoàn thành tâm nguyện kết hôn
cùng Lâm Y Lan nên đã nhờ Đào Chú, Chu Ân Lai giúp đỡ. Theo những bằng chứng
đáng tin cậy, có thể thấy, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng biết rất rõ Nguyễn Ái Quốcvà Hồ Chí Minh không phải là một người, biết rõ Nguyễn Ái Quốc đã bị bệnh chết, càng rõ hơn, Hồ Chí Minh là kẻ bội bạc hôn nhân. Tuy nhiên, với
Lâm Y Lan, Hồ Chí Minh lại đặc biệt dành tình cảm cho bà, khiến
tôi vô cùng kính trọng và biểu đồng tình.
Ngày 16 tháng bảy năm 1947, Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn một tờ báo
nước ngoài: “Đã hỏi đến chuyện hôn nhân và tương lai, xin hãy để tôi tự nhiên
trả lời. Tôi không có gia đình, không vợ con, Việt Nam chính là gia đình tôi,
các bậc phụ lão chính là người thân của tôi, phụ nữ Việt Nam chính là chị em
tôi. Tôi chỉ có một điều duy nhất phải theo đuổi là đấu tranh để Việt Nam độc lập,
thống nhất và dân chủ. Sau khi nguyện vọng hoàn thành, tôi sẽ cáo lão hồi
hương, làm một người dân bình thường, du ngoạn núi sông, trồng cây, viết sách”.
Đoạn trả lời phỏng vấn trên được
dẫn từ “Hồ Chí Minh văn tập”, tập V, trang 171, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, làm tôi suy nghĩ
mãi. Trừ đoạn nói là không gia đình, không vợ con, Hồ Chí Minh sau khi hoàn thành nguyện vọng không
thấy ông cáo lão về quê, bởi suy cho cùng, nếu thực hiện lời hứa ấy thì ông về
quê nào?
Vào thời kỳ trước năm 1947, Hồ Chí Minh chưa từng công khai quê quán hoặc thừa
nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, thậm chí còn tích cực tranh thủ nước Mỹ, yêu cầu
viện trợ giúp đỡ Việt Nam giành độc lập. Trong thâm tâm Hồ Chí Minh, phải chăng, ông đợi sau
khi Việt Nam độc lập, Đài Loan được ủy thác cho
quân Đồng minh quản lý cũng giành độc lập, như thế, ông có thể đàng hoàng trở về
quê hương, thực hiện lời hứa với người em Hồ Tập Dưỡng “Không thành công không
về quê hương”.Tuy nhiên, trời chẳng chiều người, chỉ một năm sau, quân đội Quốc
dân đảng tiến nhập Đài Loan, thế làHồ Chí Minh chẳng bao giờ có thể trở về cố hương,
đúng như lời Ngô Trọc Lưu nói, ông Hồ là “đứa con côi châu Á”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét