Tác
giả Đèn Cù là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này
thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập. Ông sinh năm 1930 và tham gia Việt
Minh vào năm 1946 tức lúc mới 16 tuổi, Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong
gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông là người chấp bút tiểu sử của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm
Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận.
Những
phân tích tinh tế
Do
làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết
các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ,
Hoàng Tùng, Đỗ Mười … và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật
phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản.
Sau
khi vụ án “Xét lại chống đảng” diễn ra ông cũng là một nạn nhân tuy mức độ lao
tù nhẹ hơn người khác nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn
giữa Mao Trạch Đông và Liên Xô cùng với nghị quyết 9 ra đời dẫn dắt cả hệ thống
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng rơi sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Quốc.
Là
người theo học tại Bắc Kinh 5 năm trời, ông có những phân tích tinh tế trong
“Đèn Cù” từ hành động tới cách đối xử của Mao đối với Lê Duẩn, Võ Nguyễn Giáp
hay ngay cả Hồ Chí Minh trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. Những ghi chép của
ông tuy không phải là những bí mật to lớn nhưng cũng giúp cho lịch sử cận đại
Việt Nam có cái nhìn chuẩn xác hơn về sự lệ thuộc của Việt Nam vào hai đầu tàu
Cộng sản thế giới là Liên Xô và Trung Quốc.
Những
ghi chép ấy nằm trong một văn phong tưởng chừng như hờ hững nhưng thật ra chất
lửa tiềm ẩn từ trang đầu tiên tới những giòng cuối cùng. Trần Đĩnh tỏ ra không
dễ dãi như cách kể chuyện của nhiều người, nhất là những người danh giá. Ông là
nhà báo có cách viết của một nhà văn đậm chất trữ tình qua nhịp đập của trái
tim thi sĩ.
Diễn
tả sự việc cô đọng, nén thông tin đến mức có thể, nhà báo Trần Đĩnh tỏ ra rành
rẽ kỹ thuật thông tin của thế kỷ 21 mặc dù ông là người đã cầm bút gần 70 năm từ
ngày đầu tiên trình diện báo Sự Thật.
Khi
đọc những giòng văn sau đây khó ai có thể nghĩ rằng tác giả Đèn Cù là một nhà
báo, ông viết:
“Cuộn
dây thừng trong tay anh tuột ra văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc.
Và chỉ một dìm xuống rồi một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm. Khi anh dội
ngược trở lên lần cuối, hai mắt anh mở đã dại đờ. Cái chết chớp nhoáng nhưng những
nghi thức đi kèm nó lại từ tốn rất mực. Cặp mắt dại kia như mơ màng khép lại,
tóc trên trán anh thong thả tách ra từng sợi lượn lờ rồi ngoan ngoãn theo nước
mơn trớn phân chia để lần lượt rẽ trái rẽ phải hai bên, quá đều, quá phân
miêng, khơi ra một đường ngôi quá thẳng, quá sạch, quá trắng ở chính ngay giữa
đỉnh đầu anh. Tôi khẽ nấc và cắn chặt môi. Tôi thấy lại anh ba bốn tuổi đang ngửa
mặt lên cho bàn tay mẹ định hình đường ngôi đầu tiên trong đời để anh giữ lấy
mãi, đường ngôi mà nay con lũ trung thành đang tỉ mẩn xếp lại cho đúng nguyên mẫu
ban đầu.”
Trong
Đèn Cù không hiếm những câu văn tinh tế như vậy do đó khi đọc nó người ta thấy
cảm xúc thi ca được vuốt ve và những hiện tượng chính trị thanh trừng, trù dập,
bợm bãi với nhau trở nên dễ chấp nhận hơn đối với người khó tính.
Nhân
chứng lịch sử
Trần
Đĩnh viết trước hết cho ông, sau đó mới tới người đọc ông và cuối cùng là những
thước phim tài liệu có khả năng đứng vững như nhân chứng lịch sử, lịch sử của dối
trá và che dấu triệt để sự thật. Để che dấu nó, đảng Cộng sản Việt Nam rập
khuôn Liên Xô và Trung Quốc, cơ quan báo chí quan trọng nhất phải có tên Sự Thật.
Những
con rối không tự biết mình là rối
Hình chụp tại tòa soạn báo Sự Thật năm 1948, từ trái sang: Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ. Hình do Tác giả cung cấp. |
Xuyên
suốt 600 trang của Đèn Cù là hai mảng quan trọng diễn ra sau khi cộng sản cướp
chính quyền. Lần thứ nhất đấu tố địa chủ, cũng là dân chúng bị ép lên miễn cưỡng
trở thành địa chủ qua “Cải cách ruộng đất”. Lần thứ hai đấu tố, giam cầm những
đảng viên cộng sản có khuynh hướng thân Liên Xô và chống đối cuộc chiến tranh
tương tàn qua tên gọi “Vụ án xét lại chống đảng”.
Trần
Đĩnh không vẽ ra toàn cảnh bức tranh theo thứ tự thời gian sự kiện như thông
thường. Ông kéo từng mảng nhỏ mà ông chứng kiến, tham gia ra miêu tả lại với những
chi tiết sâu lắng dẫn dắt câu chuyện như mục tử nghêu ngao trên cánh đồng hoàng
hôn đầy ắp những nhân chứng lịch sử. Họ tuần tự kể lại hay qua Trần Đĩnh, minh
họa lại từng chi tiết với giọng văn tỉnh táo, trầm tư và rất thông minh của một
cây viết kinh nghiệm lão luyện về tự thuật.
Qua
lời một người bạn thân theo chân Lê Duẩn sang Trung Quốc xin Bắc Kinh giải tỏa
số hỏa tiển do Liên Xô viện trợ bị Trung Quốc chặn lại vì muốn dằn mặt Việt
Nam, Trần Đĩnh nhìn thấy ở Lê Duẩn một sự ê chề, bị làm nhục vì dám sang Moskva
trước khi tới Bắc Kinh.
Chính
ông, vào năm 1958 khi học tại Trung Quốc đã chứng kiến tận mắt sự khinh bỉ của
sinh viên Trung Quốc đối với chế độ Việt Nam qua câu chuyện rất ngắn nhưng gói
ghém rất nhiều sự thật về tình đồng chí quốc tế vô sản, ông kể:
“Một
hôm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân đến Bắc Kinh đại học nói chuyện với cả nghìn sinh
viên. Bọn tôi nghe. Các mẩu câu hỏi, thắc mắc của sinh viên tới tấp truyền tay
nhau đưa lên trên bàn Chu Ân Lai. Đến một mẩu, ông đọc to: Trung Quốc nghèo,
dân Trung Quốc đói, sao cứ phải giúp Việt Nam?
Tôi
thật tình xấu hổ. Sinh viên Trung quốc đòi chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước
đông đủ các nước, nhất là trước sinh viên Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra
hành lang tụng kinh giập đầu thình thình xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu
Ân Lai không ỉm đi? Tôi hơi ức.
Chu
Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng thắn. Viện trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế
nhưng có lợi cho Trung Quốc: nên đẩy chiến tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc
hay để cho chúng nó áp sát bên cạnh?”
Trần
Đĩnh chứng kiến việc Mao Trạch Đông giả vờ “Chỉnh đảng” để tiêu diệt thành phần
chống đối với y. Báo chí được lệnh kêu gọi phải đốt rụi những gì mà đảng sai lầm,
phải “thiêu cháy đảng” để đảng tái sinh…Thế là vô số người đứng lên làm theo sự
kêu gọi này mà có hay đâu đó là mồi nhử những người có tư tưởng đòi thay đổi đảng.
Mao Trạch Đông dưới mắt Trần Đĩnh là một gã đồ tể máu lạnh. Cử chỉ nhỏ nhẹ, ăn
nói từ tốn nhưng là để đối phương có thời gian bày tỏ ngưỡng mộ hơn là bản chất
của y, một gã cộng sản có dã tâm muốn thế giới biến động để Trung Quốc đứng giữa
hưởng lợi.
Hàng đầu từ trái qua: vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh, ngoài cùng bên phải là Trường Chinh, hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân Trường. Hình do Tác giả cung cấp. |
Đèn
Cù, ngay cái tên của tác phẩm đã nói lên sự vắt kiệt tư duy của tác giả vào quyển
sách này.
Khi
nói đến Đèn Cù người ta nghĩ ngay tới cái tên gốc của nó: Đèn kéo quân. Cái gốc
đó phát xuất từ Tàu và người Việt sau nhiều thế kỷ đã làm theo nó một cách tự
nguyện. Đèn Cù trở thành văn hóa Việt Nam, thay đổi chất liệu nhưng nội dung
thì y như nguyên bản.
Nếu
nhìn trên mặt bằng văn hóa thì Đèn Cù được diễn giải là hội nhập, là hòa tan và
hàng chục khái niệm khác. Tuy nhiên đối với Trần Đĩnh, Đèn Cù được khai mở
trong một ý niệm khác: Đảng cộng sản Việt Nam theo đuôi nhau chạy vòng tròn dưới
bầu khí bị đốt lên bởi ánh nến ý thức hệ của đàn anh Trung Quốc. Họ như những
con rối không tự biết mình là rối. Không những thế họ muốn mọi người phải như họ,
tức là bịt tai, bịt mắt bịt cả tư duy để tin vào Trung Quốc một cách mù quáng.
Sự mù quáng vì ý thức hệ sai khiến ấy trở thành bi kịch cho đất nước chỉ vì một
nhóm nhỏ người lũng đoạn, thao túng mà phải chịu cảnh nồi da xáo thịt trong nhiều
chục năm trời.
Trần
Đĩnh không chấp nhận bị sai khiến và có chân trong cái đám đông tôn sùng Mao Trạch
Đông của các lãnh đạo Việt Nam. Ông tách ra đứng riêng chấp nhận tư thế của một
người ngoại cuộc, ngoại cuộc với sự tôn sùng lãnh tụ nhưng không ngoại cuộc với
số phận Việt Nam:
“Sau
năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với
thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình,
gắng là chính mình, chớ nghe sai phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng và dám
chịu đựng... Cái đó nhờ phong trào phái hữu - mà tôi say sưa, sung suớng chứng
kiến - phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có tính bùa
phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh.”
Những
gì mà Trần Đĩnh tự nói với mình nhiều chục năm về trước vẫn theo đuổi suốt cuộc
đời ông. Xóa dấu vết thần tượng Trung Quốc không quá khó đối với ông nhưng hai
thần tượng khác bao vây trí tuệ nhà báo Trần Đĩnh thật không dễ xóa chút nào.
Người
thứ nhất là Hồ Chí Minh và người thứ hai là Trường Chinh.
Hình
ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh rơi xuống trong lòng Trần Đĩnh vì tuy ông không ký vào
nghị quyết 9 ủng hộ Trung Quốc nhưng trong tư cách lãnh tụ ông đã bị phe Lê Duẩn
khống chế để không dám lên tiếng khiến Trần Đĩnh tỉnh ra trước sự thật này. Nghị
quyết 9 chỉ là giọt nước tràn ly khi trước đó qua Phạm Văn Khoa, một người bạn
của tác giả tháp tùng với Hồ Chủ tịch sang Trung Quốc về kể lại nguyên văn rằng:
“Ông Cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai!”.
Trường
Chinh cũng thế, tuy là bậc thầy trong nghề báo đối với Trần Đĩnh nhưng tư cách
tránh né vấn đề Cải cách ruộng đất cũng như hành xử trong đời sống đã làm sự
kính trọng của ông dành cho Trường Chinh hoàn toàn phá sản.
Và rồi
những diễn biến trong hậu trường chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô và Trung
Quốc đối với Việt Nam đã gây đổ vỡ hoàn toàn trong con người nhà báo Trần Đĩnh.
Ông phát hiện ra rằng Mao Trạch Đông là người vận động Stalin thôi không có
thái độ phủ nhận đối với Hồ Chí Minh trong cái gọi là cộng sản quốc tế. Chính
Stalin đã phân công cho Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam, mà trong ngôn ngữ công
sản “phụ trách” đồng nghĩa với chỉ đạo, định hướng, kể cả ra lệnh.
Tác
giả Đèn Cù viết: “Hệ lụy đã nằm
lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản Việt Nam: vị trí đàn em, bên dưới,
yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một tư thế ứng xử với Trung Quốc. Xuân
Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng định với Bác Mao quan hệ môi răng
giữa Việt Nam và Trung Quốc.”
Sự lệ
thuộc vào Trung Quốc như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm Đèn Cù. Do chạy
theo một cách vô thức như những hình nhân mà nhiều đời Tổng bí thư sau Trường
Chinh, Trung Quốc vẫn chiếm một vị trí cao chất ngất trong quan hệ giữa hai đảng
kể cả sau cuộc chiến 1979 nhuốm đầy máu do Trung Quốc gây ra.
Trần Đĩnh chụp cùng Tô Hoài. Hình do Tác giả cung cấp. |
Do cùng thời với các danh tài như
Nguyễn Tư Nghiêm, Tô Hoài, Quang Dũng, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Xuân Diệu, Phan
Kế An, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy
Tưởng. Tế Hanh, Xuân Tửu, Đặng Thái Mai…Trần Đĩnh có cơ hội nhìn thấy cách ứng
xử của từng cá nhân trong mỗi con người của họ. Chuyện sợ hãi của những người sống
trong chế độ cộng sản đã trở thành quen thuộc nhưng ám ảnh sau vụ Cải cách ruộng
đất như Tô Hoài thì có lẽ đã lên tới thể loại hài hước khó ngăn tiếng thở dài.
Trần Đĩnh kể lại:
“Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ
xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba mầu xám khói nhạt. Tôi giật
mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ
người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng
vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó. Thoáng rất nhanh
tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di động được một đạo diễn tài ba điều khiển.
Nhà đạo diễn đó là ý thức về giá trị tự thân. Và rất nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng
nên tập thể điêu khắc này để đối lại tượng đài Nạn nhân các trại tập trung Quốc
xã.
Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm,
ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những
con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng...
Ba chúng tôi đứng lặng trên hè.
Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn
cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một
người tù binh đi ở ngoài cùng.
Anh trở lại, tôi hỏi khẽ: - Đánh người
ta làm gì?
Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba
đứa mình đứng yên? - Tô Hoài che miệng tủm tỉm cười.”
Cái mỉm cười của Tô Hoài sau đó thể
hiện lại một cách sắc sảo qua các cuộc đấu tố trong tiểu thuyết “Ba người
khác”.
Đọc Đèn Cù cần một sự kiên nhẫn.
Kiên nhẫn như người nông phu cần mẫn nhặt từng hạt giống hư bỏ ra trước khi
gieo giống. Những “hạt giống” trong Đèn Cù cũng vậy, có thể làm người đọc ngơ
ngác vì nó tiết lộ những sự thật nao lòng, đến nỗi khó tin, nhưng tiếc thay nó
lại là sự thật.
Thất tình Hồ Chí Minh?
Mặc Lâm: Tiếp tục về tác phẩm Đèn Cù xin nhà báo, nhà
văn Trần Đĩnh vui lòng cho biết tại sao tới giờ này ông mới quyết định ra mắt
tác phẩm này? Động lực nào đã giúp ông ngồi xuống tiếp tục viết những giòng cuối
cùng của 600 trăm trang đầy ắp tư liệu lịch sử như thế?
Trần Đĩnh: “Lê Đạt là người khuyến khích, cổ động. Tôi đã
định viết rồi và cũng đã viết rồi nhưng tôi không cho Lê Đạt biết là tôi đã viết.
Tôi nói là viết phải cô đơn vì anh viết trong khi người ta mời anh cả ngày ra đồn,
ra trạm thì anh không làm được gì cả. Phải hết sức khiêm tốn chứ tôi nói anh đừng
có phổng mũi lên. Anh muốn đi đường xa thì phải chuẩn bị cho kỹ chứ đừng ầm ĩ
lên thì anh sẽ thiệt. Cứ lặng lẽ, lặng lẽ như thế này. Tôi viết từ năm 1990 cho
đến bây giờ, cứ lặng lẽ. Lê Đạt thấy tôi sống và viết như thế và nói “mày không
viết thì tao là người thất bại” một cách để khuyến khích nhau thôi.”
Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp. |
Mặc Lâm: Trong Đèn Cù có đoạn ông đã tỏ ra thất vọng và
than rằng ông đã thất tình với Trường Chinh và cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều gì
đã làm ông tuyệt vọng về họ đến nỗi phải dùng hai từ thất tình để mà miêu tả
như vậy?
Trần Đĩnh: “Thứ nhất là ông Trường Chinh ấy nói với tôi là
ông ấy hoàn toàn tán thành vấn đề sống hòa bình dân chủ. Ông ấy nói với tôi rằng
đồng chí Krouchev chủ trương hòa bình thì làm sao mà chửi đồng chí ấy? Cho đến
lúc ông ấy gọi tôi viết hồi ký tôi biết là ông ấy nhắm tôi vì tôi với ông ấy
nhiều cái hợp nhau. Thứ nhất là ông ấy thích văn tôi. Thứ hai là ông biết lập
trường của tôi là giống ông ấy chứ không theo Lê Duẩn, cứng rắn theo Trung Quốc.
Lúc bấy giờ đảng Cộng sản Việt Nam đứng
trước hai ngả đường: theo Liên Xô hay theo Trung Quốc? Lúc đó Trung Quốc kéo mạnh
lắm, kéo người bên cạnh với sức quyết tâm rất mạnh. Hơn nữa là ông Stalin nói
là để Mao Trạch Đông phụ trách Việt Nam cho nên là đã có đường mòn thế rồi. Anh
nên nhớ Nghị quyết 9 cụ Hồ không bỏ phiếu. Không bỏ phiếu tức là không tán
thành, coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lenin thời đại này. Ông Lê Duẩn
cũng đã xác định trong quyển sách coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng của
Lenin trong thời đại cách mạng này. Thế mà cụ Hồ không bỏ phiếu là không tán
thành rồi.
Ông Trường Chinh thì tán thành và
nói rằng Trung Quốc đã đấm 9 cú đấm Thôi sơn, đánh tan chủ nghĩa Krouchev. Tôi
thấy ông ấy đi ngược lại mình nên tôi có cảm giác là thất tình! Bây giờ thì
mình có tuổi nên cũng hiểu là con người ta cũng có lúc lắt léo thế này thế nọ.
Cuối cùng ông ấy mới kiến nghị nên mới có cái đổi mới sau này đấy chứ. Đổi mới
được một tí thì ông Lê Đức Thọ lại bắt ông ấy phải về. Cụ Hồ cũng thế. Tôi thần
thánh cụ Hồ vì tôi tôi nghĩ cụ sẽ nói ra sự thật. Ai ngờ đâu cụ cũng im nốt. Té
ra mình là thằng bướng bỉnh cứ nói. Thất tình là như thế!”
Mặc Lâm: Sau khi Lê Duẩn bị Trung Quốc làm cho ê mặt
trong chuyến đi xin Bắc Kinh cho phép hỏa tiến viện trợ từ Nga được thông cảng
sang Việt Nam, phải chăng Lê Duẩn rất căm Bắc Kinh và tỏ thái độ chống Trung Quốc
một cách mạnh mẽ sau này thưa ông?
Trần Đĩnh: “Ông ấy chưa chống đâu, nhất định chưa chống
đâu. Sau này khi Cách mạng Văn hóa thì ông ấy mới giật mình. Ông bảo không cẩn
thận thì lôi thôi nhưng ông ấy cũng chưa chống. Sau này Trung Quốc lớn giọng
quá ông ấy bắt đầu giật mình. Anh nên nhớ lúc bấy giờ tôi có viết là Việt
Nam như gót giày Achilles, luôn luôn đứng dưới bóng đa bóng đề của Trung Quốc
chứ không thể đứng một mình được. Chúng ta cứ nói là chúng ta anh hùng nhưng
chúng ta thua thằng hèn là thế. Không thể đứng một mình được. Ngay đến bây giờ
cần các ông ấy đứng một mình tức là anh dám đi một mình hay không, nhưng lại
không dám nên vẫn nhìn ngó anh Trung Quốc. Cái bóng đó lớn đến nỗi chúng ta
không thể ra khỏi nó được.”
Mặc Lâm: Lãnh đạo Việt Nam hôm nay có vẻ chưa rút ra được
kinh nghiệm thân thiện với Trung Quốc cách nào đi nữa thì vẫn bị họ khinh thường,
dẫn dắt theo quyền lợi của họ. Ông đã từng biết nhiều về việc Trung Quốc coi
thường Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn thậm chí với chủ tịch Hồ Chí Minh, ông lý giải
thế nào về hiện tượng lãnh đạo hôm nay?
Trần Đĩnh: “Lúc đầu cái chủ nghĩa Cộng sản Quốc tế nó làm
cho người ta đinh ninh rằng phải có phe và có người đỡ lưng cho mình cho nên có
gì thì cái xe vẫn phải chạy và có người lái vẫn phải đi tiếp. Vì vậy khi Đặng
Tiểu Bình lên ta bắt đầu hy vọng. Đấy là những điều ảo tưởng hết. Đinh ninh rằng
Việt Nam đã đứng trên cái xe thì phải có đầu tàu, hoặc Liên Xô hoặc Trung Quốc
rồi thì chúng ta sẽ tiến lên. Trước mắt họ có làm xấu thì chắc họ sẽ phá ra được,
cũng như Đặng Tiểu Bình đánh Mao Trạch Đông để lên đấy. Tất cả đều bị chủ nghĩa
Quốc tế vô sản làm cho bị lóa đi. Cứ đinh ninh là như vậy nên không thể đứng một
mình được.
Quả thật Việt Nam có bao giờ đứng một
mình được đâu. Ngày xưa chưa có gì thì đảng Cộng sản Pháp phụ trách. Tất cả những
ông lãnh đạo không biết tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, chỉ biết tiếng Pháp thôi.
Nga giúp tiền cho mình thì lại qua Pháp. Sau này năm 1949 thì đi sang xin
Trung Quốc. Mình không thể hiểu cái ràng buộc về ý thức hệ nó kinh khủng lắm.
Con người ta không dám vượt khỏi cái ranh giới của ý thức hệ đã qui
định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên
Xô lãnh đạo anh không được vi phạm không được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa
trong đảng Cộng sản quốc tế, chi bộ của quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà
phản bội chi bộ ấy thì còn ra cái gì nữa, đúng không?
Cho
nên cái tâm thức luôn luôn phục tùng, luôn luôn sợ hãi kỷ luật ấy làm cho người
ta bị tù túng ghê lắm. Anh bị khống chế trước những quy luật tự anh đặt ra. Anh
nên nhớ là bất kỳ một ông lãnh tụ cộng sản nào cũng đều không được phép tự lập
ra đảng. Phải có Stalin bảo lập mới được lập. Anh mà tự lập anh chết ngay. Phải
có sự xem xét của Stalin để nghiên cứu xem tay này được hay không. Ghê lắm. Đó
là một uy lực kinh khủng.”
Mặc
Lâm: Qua vụ án xét lại chống
đảng, ông nhận xét thế nào về vai trò của hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ?
Trần
Đĩnh: “Trước hết chính ông Duẩn
xác định tư tưởng Lenin vào thời đại này. Ông Duẩn rất tán thành câu Mao Trạch
Đông nói rằng “Thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ.” Có nghĩa là bạn bè mà
đánh khắp thế giới, đại loạn thì chính Trung Quốc mới thoát được ra mà hưởng
trong đại loạn ấy. Cái câu ấy đầy trong sách vở của Trung Quốc. Ngày xưa tôi ở
Trung Quốc tôi biết. Ông Duẩn rất tâm đắc câu ấy. Bây giờ lái theo quĩ đạo ấy,
chiến tranh các thứ... thì họ là người tổ chức còn ông ấy cứ theo đúng đường lối
ấy. Tổ chức như vậy thì làm thế nào chống lại. Ông Thọ thì tính cách là người
gian hùng làm dữ dằn lên. Bố vợ tôi do chính ông ấy giết chứ chả thấy xét lại
gì cả. Có xét lại thì ông ấy cũng đã chết từ năm 46-47 rồi, Đảng viên đảng Cộng
sản Trung Quốc ông ấy thịt hết. Ông Lê Giản chống tổng giám đốc công an xin khiếu
nại mà không được.”
Anh
hùng hay anh hèn?
Mặc
Lâm: Trong gần cuối cuốn
sách có một đoạn rất buồn: Ông khóc vì dân ta hèn và vì nghĩ như thế liên can tới
cha mẹ nên ông bị mặc cảm là hỗn láo với tiền nhân, ông có thể chia sẻ thêm về
việc này?
Trần
Đĩnh: “Tôi nói dân ta hèn là
vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ đi, sợ anh công
an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ nhiều thứ quá. Đấy
là một tâm lý rất Việt. Bom đạn không sợ nhưng rất sợ quyền lực. Chính điều đó
đẻ ra việc chúng ta khó có dân chủ là vì dân trí thấp. Chúng ta đinh ninh rằng
chúng ta anh hùng trước mặt “kẻ thù” nhưng đụng đến chính quyền, đến nhà nước
là ta im re hết. Tôi gọi hèn là vì vậy. Tại sao tôi khóc vì tôi cảm giác nhân
dân như bố mẹ mình mà mình nói xúc phạm như vậy là mình có lỗi với bố mẹ mình.
Bây giờ dần trưởng thành rồi mình cảm thấy không phải như vậy nữa.”
Mặc
Lâm: Và nhìn lại hoàn cảnh
sống hiện nay tại Việt Nam thì ông có cảm thấy sự hèn ấy có bớt đi phần nào hay
không?
Trần
Đĩnh: “Bây giờ bắt đầu khá
lên đấy. Dân mình bắt đầu khá lên là vì sự thật đã được cởi tất. Theo tôi tất cả
đều là sự thật hết. Người ta nhìn thấy ra sự thật, cái gì là nguyên nhân. Trước
đây người ta thấy nguyên nhân là đế quốc nhưng dần dần thì không phải. Dần dần
thì người ta thấy nguyên nhân chính là mất dân chủ nhân dân không được coi trọng.
Nhân dân chỉ có tiếng là gốc, là chủ thôi chứ không hề có quyền lực gì hết. Người
ta thấy ra sự thật thôi. Người ta thấy đảng đã tước quyền của người ta. Trong
quyển sách, tôi có nói với anh cục trưởng cục A25 chuyên về an ninh văn hóa,
tuyên truyền là đảng có yếu kém về trí tuệ. Tôi nói với các anh ấy là đảng rất
yếu kém trí tuệ mà câu này không phải tôi sáng tạo ra mà chính đảng nhận như vậy.
Đảng duy ý chí mà chính vì anh kém trí tuệ nên anh duy ý chí. Anh tưởng anh có
thể cầm que diêm anh có thể đun nỗi ly nước, đó là anh duy ý chí hoặc là anh
kém trí tuệ.
Đảng
nhận, và tôi nói theo, đảng nhận nhưng đảng không bao giờ làm, đấy là bi kịch lớn
nhất của đảng. Đảng nhận dân là gốc, là chủ nhưng không bao giờ coi dân là gốc,
là chủ. Đảng nói là nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật nhưng đảng
không bao giờ làm. Ai nói thẳng với đảng là bị đàn áp.
Tôi
tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ tiếp
tục cái đà này thì không ai chịu nỗi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo. Anh thử
tưởng tượng một show về thời của thế giới New York, Paris mà anh đưa ra người mẫu
toàn bằng tre bằng nứa thì ai người ta chịu được. Ở cuộc đời, anh phải luôn
luôn làm cho người ta tin. Tôi nghĩ đảng phải rút cái bài học này đấy. Nói thẳng
sự thật mà ai người ta nói ra thì đàn áp luôn rồi nói rằng mày nói láo!”
Mặc
Lâm: Xin cám ơn ông.
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét