Chiến lũy Trung Quốc trên lãnh thổ
Việt Nam
Kỳ 10
“...Trung Quốc với cái lưỡi gỗ dối người dối ta,
khẳng định: ‘Trung Quốc không bao giờ thừa nhận Việt Nam là bạn bè vĩnh cửu đời
đời’...”
Ngoài trời còn sương mù,
tôi tranh thủ đặt vấn đề khó hiểu trong chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc vào năm
1979, hỏi:
― Thưa anh Nhất Biến, từ
ngày đầu anh đã có mặt trên chiến trường biên giới Việt Nam- Trung Quốc, anh nhận
định thế nào về chiến thuật quân lực Trung Quốc, và sau chiến tranh ai là kẻ thắng
người thua ?
Nhất Biến mỉm cười để
kéo dài suy nghĩ, rồi đáp:
― Đã 8 mùa Xuân chiến
tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc từ ngày 17/02/1979 đến nay (1987) trong ký ức
của tôi không thể nào mờ phai được, và câu hỏi của Viên Dung cũng là dịp để tôi
trình bày một gốc cạnh hiểu biết hạn định.
Nguyên nhân.
Cuộc chiến tranh giữa
Trung Quốc và Việt Nam, kéo dài đúng một tháng tại biên giới và chiếm 6 tỉnh
phía Bắc Việt Nam, những nhà lãnh đạo Trung Quốc phát động chiến tranh gọi là
"Phản công tự vệ", báo chí Trung Hoa loan tải gọi là "Trừng phạt
chiến tranh ở Việt Nam", những quốc gia phương Tây và truyền thông phương
Tây, thường được gọi là "Chiến tranh Đông Dương lần thứ 3", trong khi
giới lãnh đạo Việt Nam được gọi là "Trung Quốc xâm lược quân sự".
Trung Quốc chủ động chiến
tranh với Việt Nam, Trung Quốc thừa biết tình hình Việt Nam vô cùng khó khăn, đối
đầu với miền Nam Việt Nam cần vũ khí, trong khi ấy mọi mặt như sản xuất không đủ
cung cấp, tài nguyên kiệt quệ, kinh tế trống rỗng. Từ năm 1945-1974, Trung Quốc
nắm được cái hầu bao của Việt Nam cho nên không bỏ lỡ cơ hội chấp nhận cung cấp
quân sự và lương thực miễn phí cho Việt Nam. Theo tiết lộ của Bộ quốc phòng Trung
Quốc đã cung cấp cho Việt Nam trị giá 39,7 tỷ nhân dân tệ về vũ khí, quân nhu,
quân cụ, vật liệu, và nhà máy sản xuất v.v…phía Việt Nam ký kết hứa với Trung
Quốc, sau khi Việt Nam thống nhất, chi trả cho Trung Quốc theo khả năng đúng thời
giá điểm đó. Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc liền triển khai gửi gấp
thiết bị cần thiết để đáp ứng nhu cầu của đảng CS Việt Nam yêu cầu.
Cùng lúc, Hồ Chí Minh đại
diện cho đảng CSVN công bố rằng: "Cách mạng Trung Quốc là mối quan hệ
giữa cách mạng Việt Nam, thực sự: Vâng, sâu sắc, ý nghĩa tình bạn như ánh sáng,
đời đời vinh quan". Tiếp theo Chủ tịch Mao Trạch Đông thay mặt đảng CS
Trung Quốc cho biết: "700 triệu người Trung Quốc đang ủng hộ mạnh mẽ
nhân dân Việt Nam của lãnh thổ rộng lớn của Trung Quốc là một phía sau đáng tin
cậy của người Việt Nam".
Sau cái chết của Hồ Chí
Minh, ngày 2 tháng 9/1969. Việt Nam thống nhất đất nước, Trung ương Đảng
Cộng Sản Việt Nam, Bí thư Lê Duẩn cũng cho biết: "nhân dân Việt Nam chiến
thắng là với Đảng Cộng sản Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc và người Trung Quốc
như anh em, hỗ trợ mạnh mẽ và không thể tách rời sự hỗ trợ tuyệt vời, nhân dân
Việt Nam sẽ không bao giờ quên sự hỗ trợ hào phóng của Trung Quốc về điều
này". Tuy nhiên, Trung Quốc và Việt Nam vào cuối năm 1974, trở thành kẻ
thù, thậm chí đưa đến chiến tranh 1979, vì 39,7 tỷ nhân dân tệ để đổi lấy biên
giới phía Bắc và biển đông Việt Nam.
Khởi đầu Trung Quốc không
hài lòng Việt Nam nhờ Liên Xô hỗ trợ mở rộng tầm ảnh hưởng Đông Dương, như tại
Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ đứng đầu Pol Pot, do Trung Quốc ra sức đổ tài
vật xây dựng một ước mơ Liên bang Đông Dương. Trung Quốc đương nhiên khó chấp
nhận… chiến tranh cầu chì điện đỏ giữa Việt Nam và Trung Quốc đối thoại gay gắt,
cuối cùng hai đảng CS tranh chấp lãnh thổ bằng ngôn ngữ vũ khí.
Thực chất hai đảng CSVN
và TQ có một ước mơ thành lập Liên bang Đông Dương. Ngay cả Hồ Chí Minh đã có ý
tưởng này trước năm 1940. Trung Quốc đã không được công nhận như một kết quả Việt
Nam đi trước một buớc thành lập Liên bang Đông Dương.
Đảng CS Trung Quốc đưa
ra phán quyết trả thù lý do: "Không thay đổi được vị trí của nó (Việt
Nam), trái lại còn chống lại Trung Quốc, ví dụ: Bài Hoa, trục xuất, tịch thu
tài sản của người Trung Hoa". Từ đó Trung Quốc lập tức dừng hỗ trợ cho Việt
Nam. Thực tế, thái độ không thân thiện của Trung Quốc đối với Việt Nam kể từ
tháng 5 năm 1975 sau khi Việt Nam thống nhất đất nước.
Năm 1976, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung Quốc trả lời phóng viên Thụy Điển:
Năm 1976, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung Quốc trả lời phóng viên Thụy Điển:
― Nhà nước Việt Nam, khởi
xướng bài Hoa, buộc phải đăng ký quốc tịch Việt Nam, áp dụng chính sách ép bức
để tịch thu tài sản của người Hoa, và thậm chí buộc người Hoa phải vượt biển,
thế là người Trung Hoa ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam đồng loạt bị trục xuất tập
thể. Tháng 5 năm 1976, hàng trăm ngàn và triệu người Hoa đã đến biên giới Việt
Nam tại Quảng Tây, Vân Nam và Quảng Châu chờ đợi chính phủ Trung Quốc tiếp nhận
định cư. Chính quyền Việt Nam tiếp tục gửi binh sĩ, dân quân vượt qua biên giới
Trung Quốc, phá mỏ và xây dựng công sự trong lãnh thổ Trung Quốc, bắn phá các vị
trí quân sự, làm thương vong trên 700 binh sĩ, trong vòng 6 tháng xung đột, cảnh
đổ máu tang thương của nhân dân Trung Quốc đã chịu quá nhiều.
Nhất Biến nói tiếp:
― Bộ trưởng tuyên truyền
Trung Quốc có cái miệng lếu láo công bố quá đáng, vu khống cho Việt Nam, có
tính cách đổi trắng thay đen, vì Trung Quốc đang chuẩn vị chiến tranh với Việt
Nam cho nên có lời công bố bất chính ấy.
Vào ngày 28 tháng 1 năm
1979, Đặng Tiểu Bình viếng thăm Hoa Kỳ, hôm sau ông công khai tuyên bố với Tổng
thống Hoa Kỳ Jimmy Carter: "Thế giới của chúng ta không ổn định".
Cùng tháng 02/1979, Đặng
Tiểu Bình viếng thăm Nhật Bản, ông phát biểu: "Trung Quốc cần phải trừng
phạt Việt Nam".
Ngày 08 tháng 02/1979, Đặng
Tiểu Bình còn tuyên bố: "Quân đội Việt Nam bắt đầu cháy, và quân đội Trung
Quốc cũng từ Quảng Tây, Vân Nam vào lãnh thổ Việt Nam xây dựng biên giới mới của
Trung Quốc".
Đến ngày 17 tháng
02/1979, Quân ủy Trung Quốc tuyên bố sơ khởi: Thông qua chiến đấu đẫm máu tại
tuyến 28, phía bắc biên giới, liên tục chiếm của Việt Nam gồm các tỉnh Lạng
Sơn, Đồng Đăng, Cao Bằng, Lào Cai, hơn 20 thành phố, thị xã và làng mạc, phá hủy
một số lượng lớn các cơ sở quân sự chống lại Trung Quốc, đã bị giết chết 30.007
binh sĩ Việt Nam, 2.000 bị thương và hơn 3 triệu tù binh. Quân đội Trung Quốc
giết chết 20.006 nghìn người thường dân VN. Ngày 05 tháng Ba, mục đích của Quân
ủy Trung ương CPC thông báo "trừng phạt Việt Nam", và bắt đầu rút
quân. Ngày 16 tháng 3, (hoàn thành thu hồi biên giới). Trung Quốc tuyên bố đình
chiến mang theo dã tâm bành trướng.
Chẳng những Trung Quốc
còn lao vào tự phòng thủ chờ dịp phản công chống lại Việt Nam, Trung Quốc chiếm
được biên giới củng cố phục hồi quân đội, khóa lại rừng đồi bằng 3 vòng chiến lũy,
CPC tung ra chiến pháp quân đội sẳn sàng chiến đấu 100%. Đến năm 1984 trận chiến
núi, Trung Quốc kéo Việt Nam dính vào tranh hùng biên giới. Vào thời điểm này
quân sĩ cả hai bên chết ngoài chiến trường, máu nhuộm rừng xanh màu đỏ.
Chiến tranh cũng phải đến
lúc liên lạc ngoại giao, những mâu thuẫn năm tháng chồng chất trở nên phức tạp,
Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu trở nên ngoại giao quan trọng, đối với nguyên
nhân của cuộc chiến tranh. Trung Quốc tố cáo: "Chính phủ Việt Nam đã nhiều
lần gây sự nghiêm trọng tại biên giới, quấy rối khu vực hoạt động sản xuất, đời
sống hàng ngày của người dân Trung Quốc. Trung Quốc đã nhiều lần cảnh báo rằng
Việt Nam đã biến thành tai điếc, uốn cong lưỡi, chính phủ Trung Quốc trong hoàn
cảnh không thể chấp nhận, buộc phải khởi động một đường biên giới chiến tranh tự
vệ, áp đặt hình phạt đối với Việt Nam.
Chính phủ Trung Quốc còn
ngụy ngôn cho rằng:
― Trung Quốc luôn luôn
chủ quan và mong muốn lân bang cố gắng kiên nhẫn hòa bình, Việt Nam tăng cường
hơn nữa và tự tin, đừng khờ khạo rơi vào tham vọng. Tuy nhiên, Trung Quốc thừa
đủ năng lực trị được bệnh nhân, chỉ vì thời gian bất tiện, chưa chín muồi để đi
đến chiến tranh. Khi thời gian đến, họ đưa ra một bài học khắc nghiệt hơn tặng
Việt Nam. Trung Quốc với cái lưỡi gỗ dối người dối ta, khẳng định: "Trung
Quốc không bao giờ thừa nhận Việt Nam là bạn bè vĩnh cửu đời đời".
Trung Quốc đưa ra một luận
cứ mới nhằm chuẩn bị trước chiến tranh, thực ra kẻ la lớn tiếng đã bào mòn biên
giới phía bắc của Việt Nam từ nhiều thập kỷ qua. Năm 1979 là thời điểm Trung Quốc
mượn cớ Campuchia, một đồng minh nay trở mặt xâm chiếm Việt Nam, đương nhiên
Trung Quốc nuôi ý đồ bá chủ Châu Á, đây là một mối đe dọa nghiêm trọng cho an
ninh toàn Châu Á không riêng gì Việt Nam.
Nếu như Việt Nam biết
phát triển nội lực chống hành động xấu của đức tin Karl Marx, không lệ thuộc
vào CS Quốc tế và Trung Quốc để tránh câm hờn, tức giận của toàn dân vì mất phần
đất biên giới phía Bắc ải địa đầu Tổ quốc, Việt Nam không nên làm bạn như Trung
Quốc đã từng khẳng định phũ phàng: "Trung Quốc không bao giờ thừa nhận Việt
Nam là bạn bè vĩnh cửu đời đời".
Đúng
mùa Xuân 1979, Trung Quốc kéo quân xâm lược lãnh thổ Việt Nam :
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Tập Đoàn 3 bộ binh, quân lực Trung Quốc,
thực hiện chiến tranh tấn công vào mặt trận biên giới Việt Nam, trên danh nghĩa
"phản công tự vệ" ngày 17/02/1979. Nguồn: Quân ủy trung ương Trung Quốc,
do Nhất Biến cung cấp.
Bộ máy quân sự Trung Quốc tăng cường hoạt động
Buổi sáng ngày 08 tháng
1 năm 1979. Quân ủy Trung Quốc bổ nhiệm, Quân khu Vân Nam, Quảng Tây, Quảng
Châu huy động tập đoàn 3 quân sự, gồm 10 quân đoàn bộ binh, 1 sư đoàn pháo binh
phòng không, 1 sư đoàn pháo binh, 1 sư đoàn xe tăng chiến xa, quân đoàn đường sắt
gồm 3 lữ đoàn, 1 lữ đoàn truyền thông, 1 lữ đoàn hóa học, 1 lữ đoàn 13 không
khí, tất cả cấm trại tại vị trí chờ lệnh xuất quân. (Không quân, pháo binh và
các lực lượng khác cũng đã phối trí trên lý thuyết, bổ sung lữ đoàn Không khí
tên lửa triển khai chiến thuật.
Trung Quốc hy vọng
phương tiện cho phép chiến tranh đem về chiến thắng.
Buổi trưa ngày 10 tháng
1 năm 1979 văn phòng bộ chỉ huy Quân khu Côn Minh, Tổng Tư lệnh Dương Đắc Chí mở
rộng cuộc họp triển khai kế hoạch chiến đấu, lấy quyết định các cấp lãnh đạo khảo
sát biên giới. Đặt khu vực 12 lập Tổng hành dinh bộ tham mưu (trong lãnh thổ Việt
Nam) của tập đoàn Quân ủy. Trong khi đó quân đoàn 11, quân đoàn 13, quân đoàn
14 đã di chuyển khẩn cấp bằng đường sắt cao tốc và giao thông vận tải đến biên
giới Vân Nam giáp Việt Nam. Buổi sáng ngày 09 tháng 2/1979 đã hoàn thành trận
chiến bắt đầu, mọi sự chiến đấu đã sẵn sàng nổ súng. Tiếp theo báo cáo của Quân
khu Quảng Châu cũng đã sẵn sàng xuất quân và Quân khu Thành Đô cũng vừa hoàn tất
cả các lực lượng chiến đấu.
Một hồ sơ bí mật khác,
trước ngày 08 tháng 12/1978. Quân ủy trung ương Trung Quốc có ban hành lệnh
hành quân thăm dò biên giới Việt Nam. Ngày 13 tháng 12/1978 Quân ủy trung ương
đưa ra một chiến lược xuất quân không ghi rõ ngày tháng. Đến ngày 09 tháng
2/1979 tổng số quân đội Trung Quốc tính được 562.500 quân, tập kết tại biên giới
Quảng Tây, Vân Nam tiếp giáp Việt Nam.
Hạm đội Biển Đông ở phía
tây của Kawashima khẩn cấp lắp ráp hơn 120 loại đạn pháo tầm xa, các tàu hải
quân trang bị hơn 170 máy bay chiến đấu). Lực lượng Hải quân, đã tiến vào vịnh
Bắc bộ Việt Nam, trợ chiến bộ binh.
Hạm đội Biển Đông ở phía tây của Kawashima tiến vào vịnh Bắc bộ
Việt Nam. Nguồn: Nhất Biến.
Không quân Trung Quốc đã
cất cánh vào chiến trường nhưng không đáng ngại, chỉ có những phi cơ loại Y vận
tải, phi cơ loại JZ trinh sát, và phi cơ loại Z phi cơ lên thẳng. Sở dĩ Bộ chỉ
huy Không quân (PLAAF) Trung Quốc không sử dựng phi cơ chiến đấu, như phi cơ loại
J tiêm kích, phi cơ loại Q tấn công mặt đất, phi cơ loại H ném bom, phi cơ loại
JH tiêm kích và ném bom. Vì có những lúng túng nội bộ tướng lãnh Không quân
Trung Quốc, mặt khác thế giới đang trong tình trạng chiến tranh lạnh. Đặc biệt
chỉ có hai phi vụ trong lực lượng Không quân của Hạm đội Biển Đông ở phía tây
Kawashima tấn công chớp nhoáng tại Móng Cái tỉnh Quảng Ninh Việt Nam.
Không quân Trung Quốc (PLAAF) phân loại phi cơ chiến
đấu và phi cơ hạng nhẹ, như Phi cơ loại Y vận tải, phi cơ loại JZ trinh
sát và phi cơloại Z phi cơ lên thẳng. Phi cơ loại J tiêm kích, phi cơ loại Q tấn
công mặt đất, phi cơ loại H ném bom, phi cơ loại JH tiêm kích và ném bom. Nguồn:
Nhất Biến.
Phối trí chiến thuật
Vân Nam và Quảng Tây chọn
khu vực tự trị Zhuang xuất phát chiến tranh gồm hai hướng tấn công, chia thành
ba giai đoạn. Vân Nam và Quảng Tây tấn công theo chiến thuật quen thuộc của Tư
lệnh Dương Đắc Chí. Quảng Tây từ Khu tự trị Zhuang tấn công vào lãnh thổ Việt
Nam dưới sự chỉ huy của Phó Tổng Tư lệnh Đại tướng 许世友 Hứa Thế Hữu.
Binh hùng tướng mạnh với quân số tổng cộng 9 Quân đoàn, 29 Sư đoàn bộ
binh (tương ứng: quân đoàn 11, quân đoàn 13, quân đoàn 14, quân đoàn 41, quân
đoàn 42, quân đoàn 43, quân đoàn 50, quân đoàn 54, quân đoàn 55, quân đoàn 58
và Sư đoàn 20).
Ngoài ra hậu phương cũng là một mặt trận biên giới, như Quảng Tây còn
lập Phòng tuyến những sư đoàn độc lập gồm có 4 Lữ đoàn Pháo binh (65 pháo binh,
70 pháo binh cao xạ cấp sư đoàn), và 3 lữ đoàn Bộ binh. Và quân khu Vân Nam độc
lập Phòng tuyến 5 Lữ đoàn Pháo binh (1 bộ phận pháo binh, 4 bộ phận pháo binh
cao xạ), và 2 Lữ đoàn Bộ binh, đối diện biên giới Việt Nam.
Khu vực tự trị của người Zhuang,
gồm có dân tộc thiểu số Dao, Mèo và Thái là nơi tập kết của Tập Đoàn 3 Quân đội
giải phóng nhân dân Trung Quốc. Sáng ngày 17/02/1979 quân xâm lược Trung Quốc
đã chiếm ba địa danh trọng yếu, như Nam Khoa, sông Hồng Hà, Thập Lý (màu đỏ) của
Việt Nam và từ đó vẽ lại bản đồ biên giới mới Việt Nam-Trung Quốc (màu xanh đường
ranh biên giới hiện nay) - Nguồn: Nhất Biến.
TổngTư lệnh Đại tướng Dương Đắc Chí (杨得志) , tập kết
quân tại thị trấn Lục Xuân, Bình Hoài Ải, Nguyên Hoàng Kha, Thiểu, Cụ, Giả Thể.
Hướng tiến quân của Dương Đắc Chí vào biên giới Việt Nam, gồm 3 tỉnh Lai Châu,
Lai Châu và Hà Giang.
Tổng
tư lệnh "Phản công tự vệ" Đại tướng Dương Đắc Chí - Nguồn: Hoa Chí Cường
Phó Tổng Tư lệnh Đại tướng 许世友 Hứa Thế Hữu, đóng quân tại thị trấn Nam Khoa, sông Hồng Hà, Kim Bình,
Thập Lý, Mã Zoai Đề, Bồng Hoa, Đại Thái, Hà Khẩu tự trị khu. Hướng tiến quân của
Hứa Thế Hữu vào biên giới Việt Nam, gồm 3 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng
Ninh.
Phó
tổng tư lệnh Đại tướng Hứa Thế Hữu - Nguồn: Hoa Chí Cường.
Ngày 17 tháng 02/1979 trong tháng, tính theo âm lịch, lúc 4 giờ 30
(21/01/1979AL) Tư lệnh Dương Đắc Chí thu thập từ quân báo cho biết đã có đến 9
quân đoàn Trung Quốc tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, từ hai hướng Quảng Tây,
Vân Nam, chiếm được 6 tỉnh và 11 quận của Việt Nam. Ông lập tức tuần tra biên
giới, từ chiến trường báo cáo lên Quân ủy trung ương (Đặng Tiểu Bình).
Ngoài ra còn có những quân đoàn biệt lập đồng tham chiến:
Ngoài ra còn có những quân đoàn biệt lập đồng tham chiến:
Như, Quân đoàn đường sắt, quân đoàn kỹ thuật, quân đoàn truyền thông
và các ngành khác đã trang bị chủ lực cho mỗi Sư đoàn vừa tác chiến vừa năng động
chuyên ngành như Bộ binh, riêng Bộ binh B được mở rộng hơn 12.000 chiến binh, mỗi
quân đoàn cho 6 sư đoàn bộ binh, như (316 A, 337, 5345, thứ 3, 3 tháng 8, 346
phòng), mỗi Sư đoàn có 4 trung đoàn pháo binh, một quân đoàn có khoảng 100.000
chiến binh trên lý truyết. Trước ngày chiến tranh lực lượng quân sự của Quân đội
Giải phóng Nhân dân Trung Quốc có gần 562.500 tay súng.
Hỏa lực tác chiến của Trung Quốc
chủ yếu tăng-thiết giáp, mìn, lựu đạn, chai cháy, súng trường, súng phun lửa, vũ
khí hóa học, pháo binh “thổi hồn” vũ khí chống tăng như Bazooka, PIAT,
Panzerfaust.v.v… Nguồn:Nhất Biến.
Châm ngôn của phản công tự vệ: "Ngày trở về của chiến sĩ Trung
Quốc, sau khi rửa tội cho Việt Nam". Không ai ngờ, phía trước quân đội
Trung Quốc khoảng 500 km có dân quân của người Việt Nam phát động một cuộc đột
kích, quân đội Trung Quốc bị tổn thất nặng, do chiến thuật biển người để tấn
công nhưng bất thành. Ngày 16/3/1979 sau khi các lực lượng quân đội Trung Quốc
phải rút lui trở lại vị trí núi cao đã chiếm được lập pháo đài phòng thủ, từ đó
trở đi thành cuộc chiến tranh tuy quy mô nhỏ, nhưng quân đội Trung Quốc thương
vong mỗi ngày tăng lên tính theo con số Trăm, nhất là năm 1984 xác chết hai bên
Việt Nam và Trung Quốc chồng chất cao theo núi rừng .
Chiến thuật biển người để
"Phản công tự vệ" biến thành "3 sạch". Sạch vật chất, Sạch
người, Sạch biên giới. Cuối cùng Trung Quốc tặng cho Việt Nam 6 tỉnh biên giới
thành bình địa! - Nguồn:Nhất Biến.
Nhất Biến nói tiếp:
― Đến nay vẫn còn chiến tranh (1978) chưa thể phân định kẻ thắng người
thua, theo tôi thắng hay thua còn nằm trên bàn mổ ngoại giao của Việt Nam và
Trung Quốc. Một điểm lý thú khác, tôi đang tìm hồ sơ tham chiến của quân lực Việt
Nam, cũng như lực lượng Quân báo và Tình báo của hai đối thủ.
Tôi đa tạ:
― Một lần nữa tôi hài lòng đa tạ anh Nhất Biến, đã phân tích tỷ mỉ chiến
thuật và chiến lược cũng như con số quân lực của Trung Quốc, tuy nhiên đây chỉ
là một gốc chiến tranh chưa phải toàn diện, hy vọng có dịp anh cho biết thêm những
gì mà anh đã biết.
Sáng nay sưong mù trả lại một phần quang đãng cho vùng trời miền rừng
núi, ánh sáng ban mai đem lại thời khí ấm áp cho một ngày mới, chim kêu vượn
hót thi nhau bốn bề cao nguyên Việt Bắc. Ngoài lộ đất đỏ, lác đác người dân
làng trên vai mang gùi, gánh đi ra nương rẫy bậc thang.
Tôi đến làng đã một đêm trôi qua, sáng nay càng nhớ anh chị Dũng và mấy
cháu, trong lòng có phần xôn xao muốn gặp người thân thật sớm, liền đề nghị:
― Em xin đề nghị quý anh Tùng, Linh, Bá và Nhất Biến cùng đến nhà anh
Dũng của tôi nhé?
― Không được, Linh và Bá có việc riêng với anh. Chiều nay 6 giờ sẽ đến
nhà chú Cao Dũng, đề nghị chú Tâm đưa anh Nhất Biến đi thăm chú Dũng có thế mới
phải nghĩa và hai người là đồng nghiệp đi với nhau dễ trao đổi hơn, chú Tâm nhớ
bảo chị Hồng đập con lợn bỏ ống (tiền tiết kiệm bỏ và heo đất) làm một buổi tiệc
linh đình nhé?
― Thưa anh Tùng, em sẽ thưa lại với chị Chỉ Hồng ạ.
Tôi và anh Nhất Biến chào mọi người hẹn gặp lại 6 giờ chiều nay, chúng
tôi ra khỏi nhà trực chỉ đến nhà anh chị Dũng.
Huỳnh Tâm
Paris 16/05/2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét