Giặc Hán đốt phá nhà Nam - Kỳ 13 (Huỳnh Tâm)

ÿ  Huỳnh Tâm
Ngày 21 tháng 7 năm 1955. Mao Trạch Đông, Chu Đức, Hồ Chí Minh, đồng chí Hoàng Văn Hoan tại sân bay Bắc Kinh.  Nguồn: Tình báo Hoa Nam.

“…Tư liệu đang nằm trong tình trạng mạch nước rò rỉ và dĩ nhiên lâu ngày ắt phải thấm đất ướt sâu. Hy vọng sẽ chảy mãi không cạn nguồn sự thật mà đã hơn 74 năm cấm kỵ mà người dân không được biết đến. Chúng tôi tin rằng nhân dân Việt khó chấp nhận kẻ phản bội Tổ quốc lại tự do sống nhởn nhơ trong nhà Việt Nam…”

Ngày 15 tháng 8 năm 1963, Hồ Chí Minh tuyên bố "trục xuất các lực lượng Mỹ" nhưng lời tuyên bố này đã không được phổ biến vì Mao chưa cho nói đích danh Mỹ ở đây. Cùng ngày ông Hồ gửi 2 công văn đến Quân ủy Trung ương (CPC) Việt Nam, và Nguyễn Văn Linh phái viên của Quân Giải Phóng miền Nam Việt Nam, nội dung Hồ giới thiệu : "…. Quý đồng chí miền Nam chuẩn bị tiếp đón những nhà lãnh đạo quân sự Trung Quốc đang bí mật vào miền Nam, quý đồng chí Trung Quốc có nhiệm vụ quan sát tình hình, lập chi tiết kế hoạch, phối trí lại quân sự, điều động chiến trường cho phù hợp chiến lược mới, tôi thay mặt đảng và chính phủ hy vọng quý đồng chí miền Nam đấu tranh nhất định giành chiến thắng ….."

Hôm sau Hồ Chí Minh báo cáo về Bắc Kinh, Mao Trạch Đông nhận được kế hoạch cơ bản chiến lược Việt Nam chống lại Hoa Kỳ, cùng lúc đưa ra kế hoạch bí mật phản công, tiến hành theo chỉ đạo của Mao:
‒ Mùa thu năm 1964. Tình hình chiến sự tại Việt Nam leo thang, Mỹ lên kế hoạch 1 "Sự cố phía Bắc vùng Vịnh". Người Mỹ bắt đầu bổ xung quân số ở phía Nam. Trong cuộc chiến này, tôi tin tưởng đảng ta nhất định giành được chiến thắng.
Ngày 20 tháng 11 năm 1964, Mao Trạch Đông quan tâm nhiều hơn đến tình hình chiến tranh tại miền Nam Việt Nam. Từ Bắc Kinh Mao truyền lệnh cho Hồ Chí Minh mở rộng chiến tranh làm áp lực buộc người Mỹ rút quân.
Ngày 26 tháng 8 năm 1963, lần đầu tiên họ Hồ tuyên bố:
‒ Yêu cầu người Mỹ rút các lực lượngquân sự ra khỏi miền Nam Việt Nam, các vấn đề của
Việt Nam phải để cho nhân dân Việt Nam tự giải quyết. 
Hồ Chí Minh vừa tuyên bố, tức khắc túi khôn của Việt Nam bị bóp chết. Mọi sáng kiến và đường hướng của đảng CSVN kể từ nay đều thuộc sự chỉ đạo của Trung Quốc. Ngày hôm sau Hồ Chí Minh tiếp chính phủ Kim Nhật Thành Hàn Quốc. Mục đích chuyến viếng thăm này Mao có chủ ý muốn Hồ Chí Minh học tập theo kinh nghiệm của Hàn Quốc, Mao hy vọng cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc như Triều Tiên.


Ngày 21 tháng 11 năm 1964, chủ tịch Kim Nhật Thành và Chủ tịch Hồ Chí Minh tại khu nghỉ Hồ Tây. Nguồn: Tình báo Hoa Nam.

Nhân dịp tiếp Kim Nhật Thành, Hồ phấn khởi tuyên bố:
"…. Việt Nam quyết tâm chống lại xâm lăng Hoa Kỳ đã thảm sát người dân Nam Việt Nam" , "Ngô Đình Diệm là tay sai trung thành của đế quốc Mỹ, tuy nhiên, vai trò tay sai nếu bị chết đi, hoặc thậm chí bị kéo vào chủ nghĩa đế quốc Mỹ, theo đuổi chính sách hiếu chiến chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Đảng nhà nước chúng tôi, sẵn sàng chuyển sang điểm A, Ngô Đình Diệm cũng sẽ theo tiền lệ số phận Lý Thừa Vãn của Nam Hàn. Một tay sai chết sẽ dẫn đầu những mũi tên đến mục đích cuối cùng. Những tay sai chỉ làm vật hy sinh cho chủ nghĩa đế quốc tế Mỹ…".

Cũng vào thời điểm này (1963) chính quyền miền Nam Việt Nam chưa hề lên tiếng tố cáo sự thực của miền Bắc đã có sự hiện diện của 1,4 triệu quân bành trướng Trung Quốc, thậm chí quân phục kaki màu cỏ úa của Trung Quốc đã nhuộm toàn bộ miền Bắc. Trong khi ấy miền Nam Việt Nam chỉ có 300.000 quân Mỹ, điều này cho thấy quân số Mỹ-Trung không đối xứng.
Ngô Đình Diệm âm thầm sắp xếp cánh cửa quay vòng số một, kiềm chế được những lực lượng quân cộng sản miền Bắc xâm nhập vào Nam. Nhưng rất tiếc sau khi Ngô Đình Diệm qua đời, những con rối chính trị không có khả năng làm suy giảm thế lực cộng sản. Lúc này miền Nam Việt Nam cũng không khác tình hình bán đảo Triều Tiên vào năm 1950 bao nhiêu.
Hiện chiến trường đã khởi động leo thanh từng ngày. Mao Trạch Đông viện trợ thêm sức mạnh cho đảng cộng sản Hồ Chí Minh. Họ lấy làm phấn khởi vì mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Họ ôm nhau ca tụng "Tình đồng chí, tình anh em" muôn đời.

Tại tư gia Bắc Kinh, "Cha già dân tộc", ăn trưa, tay phải cầm bánh mì, tay trái ly rượu mạnh đã lưng, chiều uống rượu mạnh, làm thêm cữ café, nghe nhạc Tàu, hút thuốc thơm Bastos Luxe.  Nguồn: Tình báo Hoa Nam.
Ngày 07 tháng 2 năm 1965, Tổng thống Johnson ra lệnh cho các tàu sân bay Hạm đội 7, ném bom khắp miền Bắc Việt Nam. Trung Cộng la làng, tuyên bố: "Toàn cõi Đông Dương và nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam đã bị người Mỹ tấn công”. 
Ngày 17 tháng 4 năm 1965, Trung Quốc thành lập Bộ chỉ huy Quân sự Trung ương Chiến trường Việt Nam, công khai tuyên bố nâng cấp chiến tranh. Tình hình leo thang đột ngột, quân đội Trung Quốc xâm nhập qua vĩ tuyến 17, tiến thẳng xuống miền Nam Việt Nam, trong khi đó, Tổng thống Mỹ Johnson bỏ qua động thái của quân đội Trung Quốc.

Ngày 08 tháng 6, tình hình quân sự khẩn cấp, Mỹ gửi thêm quân đến Việt Nam tiếp tục xây dựng một hệ thống phòng thủ tại bờ biển. Mao Trạch Đông không còn che giấu núp sau lưng xác của Hồ Chí Minh, công khai viện trợ vũ khí cho Hồ Chí Minh, mặt nạ gỡ xuống sớm hơn dự định, và Mao tuyên bố chấp nhận thay Hồ Chí Minh khởi sự chiến tranh với Mỹ tại Việt Nam.
Buổi tối lúc 08:30 ngày 09 tháng 6, quân đội Trung Quốc xuất quân từ hướng tây Nam Trung Quốc, tại đèo Hữu Nghị biên giới Bằng Tường, còn có tên gọi Bình Hưng (trước đây là thị trấn Nam Môn lãnh thổ Việt Nam). Những quân đoàn tiên phong Trung Quốc trang bị vũ khí nặng, quân đoàn phòng không, pháo binh, quân phục vải màu xanh cỏ, giày chiến, trên tay nắm lấy khẩu súng trường sẵn sàng tấn công, trên đôi vai ba lô và vũ khí.
Thời tiết miền Bắc tháng 6 bỗng lạnh buốt, Bộ chỉ huy quân đoàn bất chấp những cơn mưa xối xả, dù binh sĩ than vắn than dài, vẫn tiến quân giữa đêm giá lạnh. Hai hướng hành trình dài của đoàn quân xa, nửa đêm tiến vào hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, một phần quân chuyển qua hướng Đông Bắc Việt Nam đến địa điểm tập kết Quảng Ninh, xuống tàu đổ bộ hướng biển. Tàu chuyên chở vũ khí nặng, khi đến đảo vùng vịnh nhằm lúc nước thủy triều xuống thấp, những con tàu bị mắc cạn, đậu cách cầu đảo hơn trăm mét. Thiếu tướng Lưu (), người đứng đầu cán bộ chính trị viên của Sư đoàn 234, có nhiệm vụ phòng thủ vịnh Bắc Bộ, đối mặt Đông với quân Mỹ, tiết lộ:
‒ Chúng tôi đổ bộ ra đảo, ngay lập tức, các sĩ quan và những người lính nhảy xuống, sóng nước biển ngang vai với tay nắm cơ giới, thân lao nhanh lên đảo Khởi Tố (起诉), với khẩu hiệu "quân biển thực hiện trước khi bình minh đến đảo!" Để thích ứng với chiến tranh Việt Nam, quân đội Trung Quốc dùng chiến thuật "hạ cánh" cố ý thực hiện mọi sự chuẩn bị đặc biệt, tạo bất ngờ làm cho quân Mỹ nao núng. Đúng lúc trời sáng, chúng tôi đã xây dựng hoàn thành phòng thủ theo từng nhóm liên kết ba doanh trại, một tiểu đoàn cơ khí, một tiểu đoàn pháo binh phòng không, 85 khẩu pháo, 82 súng cối, có cả truyền tin (通联) và liên kết giao thông vận tải với đường biển.
Quân đội Trung Quốc đã thành lập bộ chỉ huy trên đảo, đúng kế hoạch dự trù chiến thuật hành quân biển, chiến thuật này đáp ứng hành quân cho địa thế đảo ven biển. Ngoài ra còn có đội quân "dưới lều" chuyên xây dựng phòng thủ cho bộ chỉ huy, công sự pháo binh, công sự phòng không, chiến hào, mọi chuẩn bị tiến hành chặt chẽ.
Theo yêu cầu của Việt Nam lập phòng thủ cho chiến tranh dài hạn, chủ yếu xây dựng công sự vững chắc tạo ra tâm lý an toàn chiến đấu, vật liệu nặng bằng xi măng, cốt sắt, thép, gỗ, do quân đội Việt Nam cung cấp, nhiều đảo thiếu cát, đá, và một số đảo không có nước ngọt, được vận chuyển từ đảo lân cận. Áp lực lớn nhất đối với Lữ đoàn hàng hải, phải đảm bảo xây dựng những cơ sở quân đội trước hạn định, họ làm việc ngày và đêm, mưa hay nắng. Ngoài ra, còn có những đoàn truyền vận chuyển vũ khi, cơ giới nặng đến Vịnh Bắc Bộ từ các cảng biển Trung Quốc.
Quân đội Bắc Việt đặt dưới sự chỉ huy của Quốc phòng Trung Quốc, những lãnh đạo quân sự Trung Quốc được ưu tiên làm việc bên trong công sự "đại dương" theo tiêu chuẩn pháo đài kiên cố và vững chắc. Trong vùng đảo còn có những pháo đài thiên nhiên bao quanh bởi vách đá, binh sĩ chia ca giờ, đi tuần tra trên vách đá phải buộc giây cáp vào thắt lưng, nhấn thanh khoan búa treo lơ lửng thân người trên vách. Ở trên những con mòng biển lượn quanh đầu, dưới chân sóng biển lăng tăng, sóng biển ập vào vách đá ầm ầm, những người lính ẩn thân trong khe vách an toàn không sợ bích kích pháo của Mỹ, cũng như binh sĩ lục địa ẩn mình trong chiến hào.
Sau khi kế hoạch phòng thủ hoàn chỉnh, quân đội Trung Quốc bổ sung lực lượng, gia tăng quân số từ đất liền đến hải đảo, cho nên công trình xây dựng vất vả, ngưới lính xây dựng không có ngày nghỉ trải qua nhiều tháng, làm việc ngoài trời tiếp xúc với ánh nắng, tất cả chiến sĩ thợ xây trên khuôn mặt đầy màu khói, da ngăm đen. Chiến binh ở đây đều có kinh nghiệm chiến đấu với Phi Tặc chuyên cướp biển, họ không phải lo lắng, nhưng bây giờ ở hải đảo không phải môi trường chiến đấu của họ.
Nói đến chiến tranh Việt Nam, chúng tôi được biết nhiều nhờ thông tin hướng dẫn qua chương trình Hoa ngữ của đài phát thanh Hà Nội, có những bình luận không tốt về quan chức miền Nam Việt Nam. Quá nhiều chương trình ca tụng Bác đảng không mang tính quốc gia, và những anh hùng huyền thoại không tưởng, hy sinh vì Bác đảng, những thông tin quân đoàn đóng quân tại những hải đảo phía Đông Bắc, bảo vệ bờ biển và những khu rừng trong lục địa có doanh trại pháo binh Trung Quốc.
Những lãnh đạo chỉ huy đơn vị phòng không, pháo binh Trung Quốc, tiết lộ:
‒ Chúng tôi chan máu xuống đất để giành chiến thắng, chống lại sự kiêu ngạo của các cuộc không kích của Mỹ.

Tháng 8 năm 1965, những quân đoàn pháo binh Trung Quốc (PLA) tổn cộng 63 Sư đoàn nhận lệnh phân bổ lại cấp chỉ huy, thành lập 609 Trung đoàn phòng không với nhiệm vụ chiến đấu chống không kích của Mỹ, cùng lúc bảo vệ các tuyến đường sắt tại Cổng Hữu Nghị, bảo vệ những khu vực xây dựng đường sắt của quân đội Trung Quốc trong lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 23 tháng 8, tình cờ 609 trung đoàn phòng không của Trung Quốc, đồng loạt bị máy bay Mỹ ném bom tơi tả.
Các nhà lãnh đạo quân sự Trung Quốc phân tích:
"…. Mỹ đánh bom vào trụ sở chính pháo đài phòng không, đánh dấu chiến tranh leo thang khủng khiếp, có thể không kích sẽ bước gần đến biên giới Trung Quốc".
Trong ngày, bộ chỉ huy lập tức ra lệnh Tiểu đoàn 2 pháo binh của Trung đoàn 214, do Thiếu tá Trịnh Ngọc Sơn (郑玉山) dẫn đầu chuyển quân nghi binh với địch quân. Trịnh Ngọc Sơn được lệnh chuyển quân đến Lạng Sơn, cả đêm không có một chớp mắt để ngủ, vừa đến Song Cầu tìm gấp vị trí xây dựng chiến lũy. Trịnh Ngọc Sơn (郑玉山) tiếp nhận được lệnh của Quân ủy Trung Quốc, ban hành hướng dẫn "các đơn vị pháo binh kiên quyết chiến đấu, hãy thử một trăm cú đánh cực mạnh, chúng ta phải chiến đấu để chiến thắng, hiệu suất của người dân ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống Mỹ, quý đồng chí thực hiện chủ nghĩa anh hùng cứu nước, được thành lập bởi Chủ tịch Mao, phản ánh quân đội nhân dân chống lại sức mạnh Mỹ".
Tháng sau, cuộc chiến mỗi ngày dữ dội. Bầu trời như thể sân bay riêng của Mỹ, tưởng đâu bom nổ ầm ầm trên đồng vắng. Thiếu tá Trịnh Ngọc Sơn ra khỏi giao thông hào xem hướng kẻ địch đánh bom, trên người ngụy trang lá cây xanh, bỗng ánh sáng (bom chùm) mặt trời đốt cháy cả thân người cuộn tròn khô héo. Đơn vị phòng không tiểu đoàn 126 cách 2 km đứng trên đồi đất cao tầm nhìn thu nhỏ, quan sát không chính xác, nhìn thấy mảnh bom rơi từ máy bay Mỹ không trúng mục tiêu, họ lý giải:
‒ Người Mỹ xảo quyệt, bom của chúng có thể thoát khỏi tầm mắt, hay là chúng ta đánh giá sai. Do không am tường hướng máy bay Mỹ, cho nên không nắm vững trái bom đến mục đích! Thực ra bom đã đến trước mục tiêu, còn vỏ của bom rơi sau trên đồng vắng, đó là qui luật thả vỏ bom tự nhiên, lần đầu tiên họ tiếp cận không lực Mỹ, khó định hướng khi máy bay không kích.
Trận chiến đối không của Trung Quốc hoàn toàn đưa đến thất thủ, binh sĩ chỉ biết đứng lặng người chiêm ngưỡng bấu trời, từ không gian đã nghe được tiếng không khí của một số máy bay Mỹ từ xa nhào xuống, tiếp theo hàng loạt máy bay cũng gầm lên những tiếng vang động liên hồi của "Bom", "Bùm!" "Bùm!". Lửa khói ngút trời, máy bay Mỹ trên không trung, rẻ cánh tạo thành đường bay bông hoa nở, tan biến vào không gian để lại bầu trởi xanh vắng lặng.
Bây giờ sĩ quan phòng không Trung Quốc, mới định hướng máy bay Mỹ đến từ góc phía Tây Nam của Sông Cầu. Bộ chỉ huy lấy quyết định: "Truyền lệnh, bật lửa, nhắm mục tiêu, dương cao khung giá pháo phòng không, hy vọng đốt cháy vài máy bay Mỹ".

F-105"Bàn tay sắt", cất cánh từ tàu sân bay USS Richard, ném bom bằng radar, sẵn sàng tấn công các điểm nóng miền Bắc Việt Nam.  Nguồn: Không quân Hoa Kỳ.

Ngày 05 tháng 10, một lần nữa máy bay Mỹ tấn công Song Cầu, đầu tiên thấy một lô hàng F-4 ở độ cao, tiếp cận từ hướng Tây Nam, phòng không Trung Quốc rút ra kinh nghiệm kịp thời đốt pháo để nắm bắt cơ hội hy vọng bắn chúng rơi xuống. Bốn máy bay Mỹ F-105 kín đáo tấn công từ phía Đông Bắc, ngay lập tức bộ chỉ huy phòng không Trung Quốc ra lệnh chuyển đổi hỏa lực, tập trung chơi chuyến hàng đầu tiên, khung pháo thứ hai, thứ ba, bắn hạ một vỏ đạn, lửa chụp vào bốc cháy, đã bắn đến 6 lần lô hàng F-4 đi qua, vẫn không được chiến thắng, một giờ sau đó có lô hàng mới, F-4 nghinh chiến, quân Trung Quốc đem hết hỏa lực phòng không hạ được một F-4, bắt sống sĩ quan phi công Hoa Kỳ đang lúc bị thương. Trung Quốc ca khúc chiến thắng. Theo báo cáo trong ngày quân đội phòng không của Trung Quốc thiệt hại 2.436 binh sĩ, trên 416 cao xạ phòng không bị loại ra khỏi vòng chiến, 142 cao xạ phòng không mất tác dụng 50%, trên 42 doanh trại bị bom thiêu hủy hoàn toàn, đơn vị phòng không Lạng Sơn được xem thất thủ.
Kết quả, tính theo thời giá kinh tế 200.000 nhân dân tệ đổi lấy 1 đô la, Trung Quốc muốn bắn rơi một máy bay F-4 của Mỹ phải trả giá 2.436 binh sĩ, 416 cao xạ phòng không, 142 súng phòng không mất tác dụng 50%, 42 doanh trại, và hơn 70.000 đạn pháo. Trung Quốc phải chi ra một giá đắt đỏ cho chiến tranh Việt Nam, thiệt hại như trên chỉ thu về một F-4 phế thải, bắt một sĩ quan của Mỹ làm tù binh. Chứng tỏ chiến trường Việt Nam là nơi tiêu biểu cho cuộc chiến giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Trung Quốc đã đưa quân vào Việt Nam hỗ trợ một số lượng lớn pháo binh để bảo vệ không phận.Và tiểu đoàn phòng không đặc nhiệm Sam 15, tên lửa chống máy bay tại miền Bắc Việt Nam, điều khiển bởi radar,mã Nato SA-2 (S-75-防空飞弹). Nguồn: Tình báo Hoa Nam.

Đơn vị phòng không Bắc Ninh cách trung tâm Hà Nội 30 km, đặt trong tình trạng chiến tranh cơ động, trong vòng 3 tháng đã chiến đấu với không quân Mỹ 17 lần. Hành trình cơ động trên 31.000 km, trong đó có 9 lần chiến đấu, bắn rơi 7 chiếc máy bay Mỹ, và làm bị thương bốn phi công Mỹ. Thật không may pháo đài Bắc Ninh bị bom Mỹ phá hủy hoàn toàn, người đứng đầu Trung tá Phong Thú (风趣) bị tử thương, tính đến ngày 07 tháng 10, phòng không Trung Quốc thiệt hại tương đương pháo đài Lạng Sơn.

Từ tháng 8 năm 1965 đến tháng 3 năm 1969
Trung Quốc bổ sung ào ạt quân số pháo binh, tổ chức lại chiến lược phòng thủ, thành lập thêm 16 Sư đoàn phòng không, tách rời 63 Sư đoàn phòng không chuyển đến đồng bằng sông Hồng Bắc Ninh, phối trí lại 3 bộ chỉ huy Bắc Ninh, bộ chỉ huy phòng không Cao Bằng, Lạng Sơn và phòng thủ những trung tâm quân sự tại biên giới. Bộ chỉ huy hướng Nam phòng thủ Hà Nội, lực lượng pháo binh tiếp tục tăng cường sĩ quan chuyên nghiệp, phát huy vượt trội sức mạnh với chiến thuật linh hoạt, cung cấp thiết bị vũ khí, đặc biệt ủy ban nghiên cứu vũ khí thẩm định vũ khi quân ta đã lỗi thời.
Trung Quốc nhận ra ưu thế không quân, khẩn cấp trang bị máy bay đưa vào chiến trường Việt Nam. Trung Quốc tăng quân số bộ binh lên khoảng 1,6 triệu binh sĩ, cùng thời điểm quân đội Mỹ tham chiến tại miền Nam Việt Nam với quân số 350.500 binh sĩ.
Tổng kết sơ khởi, 3 năm và 7 tháng (1965-1969), Không quân Hoa Kỳ có 558 phi vụ, thiệt hại 227 máy bay. Trung Quốc thiệt hại 653 máy bay, 479 sĩ quan phi công thương vong, 75.280 binh sĩ phòng không tử trận, 23.166 Cao xạ phòng không loại ra khỏi vòng chiến, phá hủy 542 doanh trại, trên 8 tuyến đường sắt bị bom đánh cuốn đường ray, sử dụng trên 1.690.000 đạn cao xạ phòng không.
Quân lực Trung-Việt liên kết ôm nhau tình hữu nghị, Hồ Chí Minh-Mao Trạnh Đông hạ quyết tử trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Dân-quân Việt Nam Cộng Hòa quyết tâm chống Cộng, tấn công qui mô vào quân du kích, quân chính qui Bắc Việt, đem đến thiệt hại nặng nề cho Mặt trận Giải phóng miền Nam, đưa đến tình trạng khan hiếm vũ khí, đường thủy và đường mòn Hồ Chí Minh thất thủ liên miên. Những đường vận chuyển vũ khí, lương thực vào Nam hầu như bị bít lối, gần như kiệt quệ mọi nguồn cung cấp, trở nên khó khăn, một số lượng lớn vũ khí, thiết bị quân sự do Trung Quốc viện trợ không đến tay du kích, quân chính qui Bắc Việt.
Trung Quốc hối hả thiết lập chiến thuật 2 (biển người) muốn phong toả, giải vây đường mòn Hồ Chí Minh và đường Biển, giành lại đường vận chuyển huyết mạch, tuy không hoàn toàn phong tỏa được những qui định chiến trường, nhưng ít nhất đã tiếp tế được một số lượng lớn vũ khí, lương thực và y tế, đặc biệt về gạo, Trung Quốc thiết kế bao bì nhựa bơm hơi, dùng phao nổi kết thành bè không cho chìm xuống biển, áp dụng thủy triều định hướng địa điểm cho trôi dạt vào bờ biển, sau đó thông báo cho những lực lượng vũ trang, du kích đến điểm hẹn cửa sông hay ngoài khơi tiếp nhận, gạo sẽ được vận chuyển về căn cứ. Trung Quốc đánh giá vận chuyển vũ khí bằng đường biển đạt hiệu năng cao, không muốn bị thất thoát bằng cách giả dạng cá voi chuyển vũ khí vào bờ do người nhái phụ trách. Thuyền 3 đáy cũng là phương tiện chuyển vũ khí, sau khi quân du kích nhận được số lượng lớn vũ khí và thiết bị lập tức phân tán mỏng, chuyển đến cơ sở mật khu. Chưa kể, có một số tàu buôn lợi dụng chiến tranh Việt Nam bán vũ khí ngoài khơi hải phận quốc tế. Trung Quốc và Liên Xô trực tiếp điều động vận chuyển vũ khí xâm nhập vào miền Nam Việt Nam cũng bằng đường biển. Tuy nhiên dân quân VNCH không thể làm ngơ để cộng sản tự do tung hoành, đường biển trở thành nơi điểm nóng, VNCH cảnh giác, kiểm soát nghiêm ngặt, khám phá rất nhiều tàu Trung Quốc và Liên Xô xâm nhập hải phận bất hợp pháp. Không quân VNCH chọn chiến trường biển miền Trung như Đà Nẵng, Quảng Ngải, Qui Nhơn, Bình Định, Khánh Hoà làm nghĩa trang chôn vùi dưới đáy biển những xác hạm đội quốc tế cộng sản.
Ngoài ra Trung Quốc còn sử dụng đảo Hải Nam và lục địa tỉnh Quảng Tây làm kho chứa hàng viện trợ, cung cấp vũ khí cho Hà Nội, cũng là trạm trung chuyển cung cấp đáng kể nhất cho du kích tại miền Nam. Trường hợp này do tàu tuần duyên Mỹ kiểm soát, đôi khi máy bay trực thăng Mỹ lơ lửng trên không thám thính.

Trung Quốc-Liên Xô không dễ dàng xâm nhập vào vùng biển thuộc chủ quyền của VNCH, Cộng sản đành phải thành lập căn cứ trung chuyển 3, tại bên kia bờ Bắc, sông Bến Hải ở vĩ độ 17 độ, gần đường lộ làm kho chứa hàng viện trợ, bởi nơi này là biên giới Bắc-Nam thuận lợi cho việc tiếp tế, Trung Quốc-Liên Xô vận chuyển bằng máy bay với kỹ thuật cầu không vận.
Đôi khi gió mạnh những kiện hàng vũ khí, lương thực bay qua bờ Nam thuộc vùng đất của VNCH, cũng có lúc những kiện hàng rơi xuống giữa dòng sông, gồm súng phòng không, đạn dược, gạo và một số thực phẩm bao bì thiết kế bơm hơi, trôi lềnh bềnh dọc theo rìa sông phía Nam Bến Hải.

Sông Bến Hải (Rào Thanh) cầu Hiền Lương, nối hai bờ Nam-Bắc tại vĩ tuyến 17 độ. Sông có tổng chiều dài chừng 100 km, nơi rộng nhất khoảng 200 mét, ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh thuộc tỉnh Quảng Trị. Nguồn: Tư liệu Không quân VNCH.

Với sự gia tăng xâm lược của quân đội Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam, liên tục mở rộng cuộc chiến quy mô, đưa quân tiến sâu vào miền Nam. Đồng thời du kích Mặt trận Giải phóng mở rộng liên kết với tình báo Hoa Nam (cụm thương mại) người Hoa tại miền Nam, có tên gọi "hỗ trợ quân", chính những cụm Hoa Nam này cung cấp vũ khí cho lực lượng vũ trang Mặt trận Giải phóng miền Nam, một lượng lớn vũ khí trong nội địa. Họ mua được từ những tên tướng nằm vùng trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà và lương thực mua từ những vựa lúa người Hoa.
Bỗng một ngày du kích được trang bị vũ khí nặng, và lập những tổ khủng bố Sài Gòn, Chợ Lớn. Nhờ tình báo Hoa Nam và cơ quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài địa chỉ đường Cống Quỳnh Sài Gòn (không trực thuộc Tòa Thánh Tây Ninh) một tổ chức đội lốt tôn giáo lập ra cơ sở Việt Cộng miền Nam nằm vùng, tạo điều kiện cho quân Việt Cộng nhanh chóng phát triển nội thành Sài Gòn đến mật khu miền Nam, đo đó, Việt Cộng lấy lại vị trí chiến lược ngoại ô và nội thành Chợ Lớn, Sài Gòn. Việt cộng đặt lại vấn đề cấp bách về lương thực nuôi quân từ đâu đến? Tạm thời vận tải đường biển không thể giải quyết một mình.

Bản đồ đường biển Hồ Chí Minh, vận chuyển vũ khí lương thực từ Vịnh Bắc Bộ Quảng Ninh Việt Nam, vịnhSihanouk Campuchia, đảo Hải Nam, tỉnh Quảng TâyTrung Quốc. Nguồn: Bộ quốc phòng Trung Quốc. Nguồn: Tình báo Hoa Nam.

Tàu vận chuyển vũ khí của Trung Quốc cải dạng tàu buôn nước ngoài, chở vũ khí vào chiến trường miền Nam, cập vào những tỉnh Đồng Tháp Mười, Bến Tre, Cà Mau, Hồng Ngự, Trà Vinh, Lộc An Bà Rịa-Vũng Tàu, nơi nào cũng có dân quân chuyển tải vũ khí bằng trâu, bò, ghe, xuồng vào tận bưng biền hay ra tiền tuyến, có những chiếc ghe chở 10 tấn vũ khí từ vịnh Bắc Bộ vào chiến trường QK8.  Nguồn: Tình báo Hoa Nam.
Năm 1968 (Mậu Thân), chính Trung Quốc-Liên Xô đã thất trận thảm hại tại miền Nam Việt Nam, nay Trung Quốc dốc hết toàn lực thành lập quân đoàn vận tải đường bộ do tướng Từ Bôn Trí (斯奔驰), phụ trách chuyển vũ khí và lương thực từ Trung Quốc đến tận miền Nam Việt Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh.

Ngày 21 tháng 2 năm 1965, Trung Quốc chuyển tải vũ khí bằng đường biển, những con tàu mang ký hiệu không số, cập bến Vũng Rô Miền Trung, viện trợ vũ khí vào Khu 5. Không quân VNCH phát hiện, đánh bom cho chìm xuống đáy biển. Nguồn: Tư liệu Không quân VNCH.

Trung Quốc giải quyết được vấn đề lương thực và vũ khí, Đảng Cộng sản Việt Nam, chính phủ Bắc Việt Nam được hả hê một ít. Trung Quốc tiếp tục mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh qua những dãy núi khu vực hẹp trong lãnh thổ Lào, đến miền Nam Việt Nam và Campuchia, lúc đầu đường mòn chỉ đủ xe đạp, xe đẩy, xe tay ga và voi di chuyển, dần dần mở rộng, quân vận di chuyển thong dong. Đặc biệt bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh với quân số trên 600 000 quân Trung Quốc, phối trí vũ khí nặng, súng pháo, cao xạ, phòng không.
Sau năm 1965, hơn 10 triệu quân Trung Quốc đã vào chiến tranh miền Nam Việt Nam, nhờ vậy miền Bắc rảnh tay, triển khai quân đội hành quân qua Lào và tiến quân xâm nhập miền Nam Việt Nam, cơ sở hậu phương đã vững chắc, nhu cầu chiến tranh cần mở rộng thêm đường mòn Hồ Chí Minh. Trung Quốc trực tiếp xây dựng đường Trường Sơn, với số quân 10 triệu, kiều lộ ầm ỳ những xe chân rít, xe sâu nái, xe kéo, xe xúc, thuốc nổ (Đệ nhất khí xạ) ngày đêm phá rừng, một mặt huấn luyện quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Xây dựng đường Trường Sơn (đường mòn Hồ Chí Minh) do tướng Mai Tái Đức phụ trách, dưới sự huy động của Quân uỷ Trung ương (CPC) Trung Quốc.


Điểm đứng đường mòn Hồ Chí Minh tại ngã ba Khâm Muôn, giao điểm của hai nhánh Quyết Thắng 20 và Tân Kỳ, đi vào khu rừng già Hạ Lào, song song với con sông Nam Cà Dinh, chạy tới đỉnh dốc đứng 1001 trên núi Răng Cọp. Từ đây đường mòn đổi tên thành Trường Sơn, sau khi vượt qua vĩ tuyến 17, để tới thị trấn Tchepone (Muang Xepon) nằm trên quốc lộ 9. Ðây cũng là phân nhánh đầu tiên của đường mòn Trường Sơn, xâm nhập lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, để tấn công các căn cứ quân sự Lao Bảo, Khe Sanh, Làng Vei, Cà Lu, ... trong tỉnh Quảng Trị. Sau đó, đường mòn vẫn tiếp tục chạy trên đất Lào tới núi Ấp Bia (937m), một địa danh nổi tiếng trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ II (1960-1975), được một ký giả ngoại quốc chứng kiến tận mắt cảnh hàng ngàn thấy xác bộ đội Bắc Việt bị banh thây bỏ lại tại chiến trường, vì bom đạn phi pháo, nên đã đặt là Hamburger Hill. Tại đây, đường lại được phân nhánh tới các thung lũng A Lưới, Tà Bạt và A Shau. Nơi này Hà Nội chọn làm bàn đạp tập trung bộ đội, để tấn công Thừa Thiên và Ðà Nẵng. Sau khi vượt qua cao nguyên Boloven gần ngã ba biên giới Việt-Lào-Miên, đường mòn lại phân thành hai nhánh khác chạy vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, một nhánh phát xuất từ Savarane tới Dakto, Tân Cảnh, Kontum... trước khi rẽ ngang qua các trại Lực Lượng Ðặc Biệt Benhet, Dakto... Nhánh khác từ Attopeu vào Pleiku, ngang qua Trại Lực Lượng Đặc Biệt Ðức Cơ, Pleime. Nằm giữa hai nhánh rẽ này vẫn trên đất Lào, là mật khu 609 của Bắc Việt. Kể từ đây, đường mòn Trường Sơn đổi thành đường mòn Sihanouk, với nhiều mật khu như 702, 701, 740, 203, 351, 350 và 400. Trên đất Miên, đường mòn có một nhánh rẽ nữa vào Phước Long và phần cuối cùng chạy xuống tận hải cảng Kampong Som (Sihanouk Ville) của Miên. Chính tại đây, Bắc Việt nhận trực tiếp hàng hóa viện trợ của Trung Quốc, Liên Xô và Ðông Âu, tới năm 1970 mới chấm dứt, khi Sihanouk bị Lonnol lật đổ. Nhờ đó Hoa Kỳ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới được phép hành quân sang đất Miên theo lời yêu câu của chính phủ Lonnol, cho nên tiêu diệt gần như toàn bộ những mật khu của Bắc Việt tại đây, qua các cuộc hành quân Toàn Thắng và Cửu Long.
Ngày 27 tháng 5 năm 1967, đơn vị phòng không của Thượng tá Trương chỉ huy Sư đoàn pháo, đóng quân tại vùng đất cao Lạng Sơn. Dùng địa thế chống lại máy bay B-52. Trong tháng chiến đấu trên 6 lô hàng F-105 mỗi lô 20 máy bay, đánh phá thiêu hủy hoàn toàn bộ doanh trại vùng cao, tại trung tâm pháo đài, phòng điều hành chiến thuật bị thiêu hủy. Thượng tá Trương nhận được lệnh không thể bỏ pháo đài. Vì sự sống còn Trương nhảy ra khỏi bản doanh với một chân, chạy hơn 780 mét trong mương giao thông hào. Tuy nhiên vẫn còn một vị trí trung tâm thường trực tiếp tục chỉ huy cuộc chiến chống lại kẻ thù, nhưng họ không an tâm vì quá sợ hãi.

Những chuyển vận trên đường mòn Hồ Chí Minh xảy ra hằng ngày, tức là hành lang xâm nhập người và quân dụng, từ Bắc vào Nam của Trung Quốc và Cộng sản Hà Nội, đối với Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, không phải là huyền thoại hay bí mật ghê gớm, vì những gì xảy ra ở đó, qua phi cơ thám thính và các toán Biệt Kích hoạt động, gần như biết toàn bộ. Nguồn: Tình báo Hoa Nam.

Trong tuần tháng 5, xuất hiện 4 lô hàng F-4 tấn công khốc liệt, trong đó có tám trường hợp bom chùm phát nổ ở vị trí pháo đài, chánh trị viên Sư đoàn Trung tá Vạn bị thương trước ngực và cánh tay phải, vài ngày sau cùng 234 đồng đội tử vong.
Ngày 5 tháng 7 năm 1967. Thượng tá Trương liên kết những đơn vị còn lại, tự chỉ huy, phối trí từng nhóm phòng không, gồm nhóm 1 đến nhóm 15, mỗi nhóm có 8 pháo thủ chiến đấu, một quả bom chùm đã hạ cánh xuống giữa hai chân hàng đại pháo, nổ tung, toàn bộ binh sĩ Trung Quốc thiệt mạng, nhóm pháo 15 và nhóm 5, bảo vệ đồng đội, phi thân nhảy vào bảo vệ đại pháo phòng không, đồng chơi cảm tử lấy hai chân kẹp vào pháo, kết quả không bảo vệ được pháo, bị bom thổi bay những thân thể biến mất để lại những đôi chân trần trụi trên xác đại pháo, đĩa súng phòng không dính máu quốc tế cộng sản. Trong trường hợp này Thượng tá Trương trở lại pháo đài vẫn ngồi theo thế cũ, trên ụ đất tiếp tục chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng.
Tháng 3 năm 1968, những phi vụ đánh bom miền Bắc Việt Nam "leo thang" phạm vi ném bom được giới hạn khu vực phía Nam vĩ độ 20 độ dòng Bắc, người dân Mỹ áp lực buộc chính phủ phải dừng lại.
Ngày 10 tháng 3, những quốc gia tham chiến tại Việt Nam bắt đầu chấp nhận mở hội nghị đàm phán hòa bình, họp tại Paris.
Ngày 31 tháng 10, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố: "Chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc Việt Nam, và pháo kích của hải quân". Giai đoạn này Trung Quốc và Liên Xô vận động ngoại giao trong khối Quốc tế cộng sản hổ trợ cho Bắc Việt, ngoài ra Trung Quốc và Liên Xô lợi dụng thời điểm đình chiến, âm thầm tiếp tục hỗ trợ cho quân đội Bắc Việt.
Tháng 7 năm 1970, tại Paris, Trung Quốc hứa sẽ rút hết quân đội ra khỏi Nam Bắc Việt Nam. Trung Quốc hứa bằng miệng không đi vào thực tế, dù đã ký vào quy ước chiến tranh trước quốc tế. Nhờ thời điểm này quân Bắc Việt phối trí lại, bổ sung quân đội và củng cố lực lượng Mặt trận Giải phóng miền Nam. Chính người Cộng sản thiếu lương thiện không muốn hòa bình, thừa dịp đẩy miền Nam Việt Nam vào khói lửa.
Hơn 7 năm quân đội Trung Quốc tham chiến tại Việt Nam, hỗ trợ quân Bắc Việt lớn mạnh, xây dựng cơ sở hạ tần vững mạnh, có khả năng đáp ưng mọi nhu cầu chiến tranh, từ lúc khó khăn cho đến lúc đầy đủ phương tiện chiến đấu, Trung Quốc đã thực hiện một kỷ lục tham chiến "tuyệt vời" (theo ngôn ngữ Việt cộng). Trong quân sử Trung Quốc tự cho phép mình có quyền lấy quyết định chiến tranh độc đáo, có một không hai tại Việt Nam. Nhóm kỹ thuật quân đội Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam, báo cáo trước Quân ủy Trung ương (CPC) Trung Quốc, theo hồ sơ, đã xây dựng hơn 125.600 mét chiến hào, hơn 2.300 công sự khác nhau, xây dựng mới và cải tạo quốc lộ 7, dài hơn 430 km. 217 km đường sắt mới, xây dựng lại 1.363 km đường sắt, lấp xây cầu 198 km; xây dựng 1 sân bay, xây dựng 2 nhà chứa máy bay; lắp điện thoại cố định hơn 1.560 km; lắp đặt cáp thông tin liên lạc tiềm thủy đĩnh hơn 190 km.
Ngày 02 tháng 9 năm 1969, cái chết của Hồ Chí Minh đưa đến sự chia rẽ Trung-Xô, đánh dấu sự tan rã Quốc tế vô sản và xã hội chủ nghĩa từng quốc gia. Một phần do các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam thấy được âm mưu của Trung Quốc muốn thanh trừng Lê Duẩn để rồi cướp lân bang. Cấp lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đã biết quá nhiều về Hồ Chi Minh, họ biết rõ đương sự là ai, quan hệ thế nào với Trung Quốc. Vì nguyên nhân sâu xa đó, Lê Duẩn đưa Cộng sản miền Bắc dần dần xa Hồ-Mao. Việt Nam thân Liên Xô vẽ lên vết nứt đối với Trung Quốc. Năm 1975, cuộc chiến tranh Việt Nam thực sự kết thúc. Trung Quốc không hài lòng Lê Duẩn đã ra lệnh cho bộ phận tình báo Hoa Nam ngưng mọi viện trợ, nguồn cung cấp vũ khí phải trả với giá cao. Việt Nam không còn mong đợi "tình đồng chí, tình anh em", giờ này quan hệ họ hàng Trung Quốc và Việt Nam đã quay lưng lại với nhau, do đó Trung Quốc đòi lại nợ chưa trả bằng cuộc chiến ngày 17 tháng 2 năm 1979. Chiến tranh Trung-Việt khởi sự từ lúc Hồ Chí Minh xuất hiện tại Việt Nam.

Trung Quốc sơ kết viện trợ vật chất cho Việt Nam không qui định thành tiền.
Trước năm 1940 khi Hồ Chí Minh chỉ là một tay vô danh tiểu tâm - Niên dĩ tiền đương Hồ Chí Minh nặc danh đích phó tiểu tâm). Đảng cộng sản Việt Nam là của Trung Quốc, chính vì vậy họ đã viện trợ cho đảng CSVN lâu dài nhất trong lịch sử. Trung Quốc đầu tư lớn nhất từ năm 1950 trở đi, thực hiện toàn diện viện trợ thiết thực cho Việt cộng. Ngoài ra Trung Quốc còn xây dựng cơ sở trọng yếu công nghiệp quốc phòng cho Việt Nam. Trung Quốc vận dụng mọi khả năng của mình để cung cấp vũ khí, thiết bị kỹ thuật.
Trung Quốc tổng kết sơ bộ viện trợ cho chiến tranh Việt Nam.

‒ Năm 1940-1955: 270.000 khẩu súng đủ loại, 3.000 khẩu pháo binh, 400 triệu viên đạn, 920.000 đạn pháo, 120 xe bọc thép, 10.000 động cơ điện, 3.000 vô tuyến điện, 900 xe ô tô, 110 xe tăng, 18 tàu chiến Hải quân, 18.240 tấn thuốc nổ, 1.140.000 bộ quân trang.
‒ Năm 1956-1961: 470.000 khẩu súng đủ loại, 20.000 khẩu pháo binh, 600 triệu viên đạn dủ loại, 2.020.000 đạn pháo, 420 xe bọc thép, 15.000 động cơ điện, 5.000 vô tuyến điện, 2.500 xe ô tô, 163 xe tăng, 25 máy bay tiêm kích, cường kích và ném bom, 68 tàu chiến Hải quân, 218.240 tấn thuốc nổ, 2.180.000 bộ quân trang.
‒ 1962-1964: 390.000 khẩu súng đủ loại, 2.466 khẩu pháo binh, 220 xe bọc thép, 363 xe tăng, 21.030.000 triệu viên đạn, 1.500 xe ô tô, 15 máy bay tiêm kích, cường kích và ném bom, 418.240 tấn thuốc nổ, 3.176.400 bộ quân trang.
‒ 1965-1975: 2.778.000 súng khác nhau, 763 xe tăng, 60.000 đại pháo binh, 60 tỷ viên đạn, 25.970.000 đạn pháo, 176 tàu thủy, 552 tàu thủy vừa lội nước, 620 xe bọc thép, 270 máy bay tiêm kích, cường kích và ném bom, 31.000 xe ô tô, 118.240 tấn thuốc nổ, 65.000 động cơ điện, 35.000 vô tuyến điện, 11.170.000 bộ quân trang.
Việc Trung Quốc viện trợ cho đảng Cộng Sản Việt Nam đã được phản ánh trên báo chí đảng và Quân uỷ Trung ương: -Trước năm 1968, Trung Quốc viện trợ cho cơ sở cộng sản miền Nam Việt Nam 3.660 máy vô tuyến điện, 3000 cuốn sách học thuật xã hội vô sản, 5 Trung đoàn thiết bị tên lửa phòng không, 1.170.000 bộ quân trang.
Báo chí còn cay đắng loan tải: Trung Quốc không phải là nơi chứa hàng tồn kho của Việt Cộng, không thể muốn sử dụng lúc nào cũng được, thậm chí Hồ Chí Minh còn xin triển khai thiết bị để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết tại Việt Nam.
Trong một thập kỷ (1965-1975) chiến tranh tại Việt Nam, lăng kính quốc tế cho rằng: Trung Quốc-Hoa Kỳ đối đầu với nhau bởi ý thức hệ cộng sản và tư bản. Đến năm 1965 Liên Xô nhảy vào tham chiến tại Việt Nam, từ đó Bắc Việt nhận nhiều nguồn viện trở của khối cộng sản quốc tế, như Liên Xô và các nước Đông Âu, viện trợ Bắc Việt trên 630.000 tấn hàng đủ loại. Trung Quốc nhận vận chuyển cho Bắc Việt miễn phí, nếu tính thành tiền Bắc Việt phải trả 83 triệu nhân dân tệ. Ngày 20 tháng 11 năm 1977, Tổng bí thư Trung ương Đảng Lê Duẩn tuyên bố: "Người dân Việt Nam sẽ không bao giờ quên bài phát biểu của Chủ tịch Mao Trạch Đông với tình thần công chính. 700 triệu nhân dân Trung Quốc ủng hộ mạnh mẽ đối với nhân dân Việt Nam, đất nước rộng lớn của Trung Quốc lãnh thổ phía sau Việt Nam đáng để nhân dân Việt Nam tin cậy."
Ngày nay tình thế đã khác xưa, thế giới thay đổi nhiều từ suy nghĩ đến sinh hoạt. Mỗi cá nhân là thành tố của vận mệnh quốc gia, nhân loại đã đi vào hành trình sáng tạo xã hội dân sự và đất nước cần có Dân Chủ Đa Nguyên, đi chung lộ trình tiến bộ khoa học, đưa từng cá nhân hợp đồng với nhau, xây dựng thế giới, thực hiện quyền sống làm người. Trào lưu xây dựng xã hội văn minh và khoa học ngày nay không có chỗ đứng cho những kẻ tàn bạo chỉ muốn gom trăm mối tiền-quyền vào một cá nhân.
Sau ngày 30/4/1975, nhân dân Việt đã có mặt khắp nơi trên thế giới, tạo ra nhiều luồng suy tư thông thoáng. Họ cho rằng đất nước Việt Nam phải thay đổi mạnh mẽ theo nguyện vọng của nhân dân, thậm chí nhân loại cũng đã lên tiếng: Việt Nam phải hoàn toàn thay đổi, mới có cơ may vươn mình qua khỏi sự suy thoái của đất nước. Đứng trên bình diện quốc gia, Việt Nam đã mất vị trí tính năng động trong vùng Đông Nam Á, thậm chí biển Đông và cả vùng biển trong thềm lục địa cũng không còn thuộc chủ quyền Việt Nam!
Việt Nam cần phải trở mình, đó là điều tất yếu, phải đến gần với thế giới Dân Chủ Đa Nguyên, con đường đúng đắng nhất để cằm lấy hướng tương lai. Người dân có quyền lấy quyết định phán quyết sa thải những khả năng hèn kém trong quá khứ đã từng xoáy mòn lãnh thổ, lãnh hải đưa đất nước điêu linh lùi trở lại đồ đá. Nhân dân nên tìm hiểu dấu vết mã tấu của đảng cộng sản vào một thời hung hăng, nhân dân cần thấu triệt những hồ sơ đảng cộng sản Hồ Chí Minh bán nước cho Trung Quốc, nhận diện lại một chế độ không còn giá trị nữa, bởi nó đã "hèn với giặc ác với dân", bởi nó không phải hướng đi "dân tin đảng và đảng tin dân". Nhân dân không cho phép nước Việt biến thành một nhà tù vĩ đại, càng không thể tự cho "đảng Cộng sản vẫn coi mình là ân nhân của dân tộc và dó có độc quyền quyết định số phận của dân tộc". Chỉ có những kẻ phản bội Tổ quốc Việt Nam mới có suy nghĩ điên rồ như vậy. Bảy mươi bốn (74) năm qua đã đủ quá rồi (1940-2014). Phải trả lại đất nước cho nhân dân, vì đất nước này đã từng thấm xương máu của bao nhiêu thế hệ để cấu thành nước Việt Nam hôm nay.
Ngày nay, nhân dân nhất định cất lên tiếng nói, giành lại quyền sống làm người của mình, không còn im lặng như trước đây, dù kẻ thù cản trở bước chân đi của dân tộc vẫn phải vượt qua đứng lên vì tương lai Việt Nam.
Chúng tôi chỉ muốn đóng góp một phần nhỏ trong tiến trình dân chủ, công bố những tư liệu này, tìm hiếu và tiết lộ mọi sự thật về Hồ Chí Minh và đảng cộng sản. Tư liệu đang nằm trong tình trạng mạch nước rõ rỉ và dĩ nhiên lâu ngày ắt phải thấm đất ướt sâu. Hy vọng sẽ chảy mãi không cạn nguồn sự thật đã hơn 74 năm cấm kỵ mà người dân không được biết đến. Chúng tôi tin rằng nhân dân Việt khó chấp nhận kẻ phản bội Tổ quốc lại tự do sống nhởn nhơ trong nhà Việt Nam. Nhân dân Việt Nam hãy bừng tỉnh đừng để tối mặt. Thế hệ trẻ vì tương lai của đất nước hãy nhận diện kẻ thù từ đây. Lịch sử luôn luôn công bằng phán xét, đưa lên bàn mổ tính sổ từng tội ác. Tìm lại quyền sống làm người cho dân tộc, đem lại mọi sự tái tạo mới cho đất nước Việt Nam nhân bản hơn.
ÿ  Huỳnh Tâm

* Người viết bài này tặng đảng Cộng sản và kính biếu Nhân dân Việt Nam những tấm ảnh lịch sử của Bác Hồ.

Tiếp các kỳ: [ 1 ]  [2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] Hết.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét