“Hồ Chí Minh sinh bình khảo”
Hồ Tuấn Hùng
Người dịch: Thái Văn
Tên thật: Nguyễn Tất Thành, Thời kỳ đầu hoạt động cách mạng
lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, sau đổi thành Hồ Chí Minh.
Sinh ngày 19 tháng năm năm 1890 tại làng Kim Liên, xã Nam
Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Việt Nam trong một gia đình trí thức nho học.
Năm 1920 gia nhập Đảng Cộng sản Pháp trở thành người cộng sản
đầu tiên ở Việt Nam.
Năm 1923 đến Liên Xô tham gia Đại hội Quốc tế nông dân và Đại
hội V Quốc tế cộng sản.
Năm 1925 sáng lập "Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng chí hội" ởQuảng Châu, Trung Quốc.
Năm 1930 chủ trì thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam tại Hương Cảng
(sau đổi thành Đảng
Cộng sản Đông Dương).
Tháng tám Năm 1945 được cử làm Chủ tịch
lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tháng ba năm 1946 được bầu là Chủ tịch
kiêm Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tháng hai năm 1951, Đảng Cộng sản Đông
Dương đổi tên thành Đảng Lao động
Việt Nam, được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương.
Ngày 2 tháng chín năm 1969 từ trần tại
Hà Nội.
Lời người dịch
“Hồ Chí Minh sinh
bình khảo” (Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh) do Giáo sư Hồ Tuấn Hùng , một
người đã tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan dành nhiều
công sức nghiên cứu trong những năm qua, được Nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Đài Loan vào ngày
01/11/2008 (mã số ISBN: 9789866820779).
Hồ Tuấn Hùng sinh năm
1949 (có tài liệu nói là sinh năm 1948), tại Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan, là
cháu ruột Hồ Tập Chương (mà
ông khẳng định chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh) từng dạy học hơn 30 năm, đồng thời
ông còn là viên chức cao cấp Giáo Dục Hành Chính. Theo Giáo sư Hồ Tuấn Hùng, Hồ
Chí Minh xuất thân là người thuộc sắc tộc Khách Gia (Hakka, người Việt gọi là Hẹ
) tại huyện Miêu Lật, địa khu Đồng La, Đài Loan.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động
cách mạng của ông được tác giả tìm
hiểu kỹ lưỡng trên cơ sở tham khảo
nhiều nguồn tư liệu cũng như nhân chứng. Tác phẩm “Hồ Chí Minh sinh bình khảo”
dày 342 trang, khổ 15 x 21 cm, bìa cứng, in chữ nổi.
Phần mở đầu gồm các bài giới
thiệu của tiên sinh Chung Triệu Chính, luật sư Kiệt Chương và của tác giả. Phần
chính được chia làm 6 thiên, thứ tự như sau :
I / Hài kịch tráo rồng đổi phượng (Thâu long chuyển phượng đích hý khúc)
II/ Ve sầu lột xác, thật giả kiếp người (Kim thiền thoát xác thực giả nhân
sinh)
III/ Những năm tháng phiêu bạt (Phiêu bạc lưu lãng đích tuế nguyệt)
IV/ Khúc ca buồn về tình yêu, hôn nhân (Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
V/ Hán văn “Nhật ký trong tù” và “Di
chúc” (Hán văn Ngục trung nhật ký dữ Di chúc)
VI/ Hạ màn, đôi lời cảm nghĩ (Lạc mạc cảm ngôn)
Cuốn sách khá dày, công việc
chuyển ngữ mất nhiều thời gian và công sức, tuy nhiên, người dịch đã cố gắng dịch
trọn vẹn để cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn mới về nhân vật huyền thoại Hồ Chí Minh, còn việc đúng hay sai xin
để công luận thẩm định, chúng tôi không dám lạm bàn.
Tháng
giêng năm 2013
Thái
Văn
Mục lục
Lời giới thiệu 1
Người kỳ lạ, chuyện kỳ lạ, sách kỳ lạ
Lời giới thiệu 2
Tin có bằng chứng, bổ khuyết
và dựng lại lịch sử
Thay lời tựa
Màn đầu bóc gỡ tấm mạng che
huyền bí
Tấm mạng huyền bí che mặt Hồ
Chí Minh
Hồ Chí Minh có phải đến từ Đài
Loan?
THIÊN I
Hài kịch tráo rồng đổi phượng
Màn một
Sự thật về cái chết của Nguyễn
Ái Quốc
Những ẩn số về con người Hồ
Chí Minh
Nguyễn Ái Quốc chết thật hay
chết giả?
Báo chí đưa tin Nguyễn Ái Quốc
chết bởi bệnh lao phổi
Bí mật về cái chết của Nguyễn
Ái Quốc
Sai lầm của Hồ Chí Minh về việc
tự nhận "mình đã bị chết"
Hồ sơ bệnh án Nguyễn Ái Quốc
và Hồ Chí Minh
Hồ sơ bệnh lao phổi của Nguyễn
Ái Quốc
Màn hai
Tiết mục Nguyễn Ái Quốc
"chết rồi sống lại"
Vụ án Nguyễn Ái Quốc bị bắt tại
Hương Cảng
Vụ án "Tòa Hương Cảng thẩm
vấn Nguyễn Ái Quốc"
Viện Khu mật Hoàng gia London
xét xử - Chống án
Vụ án Nguyễn Ái Quốc đến
Singapore bị buộc phải quay lại Hương Cảng
Sự kiện Nguyễn Ái Quốc mất
tích ở Hương Cảng
Nguyễn Ái Quốc trên đường từ
hương Cảng đến Hạ Môn
Sự kiện Hồ Chí Minh từ Hạ Môn
đến Thượng Hải
Bộ phim "Nguyễn Ái Quốc
thoát hiểm ở Hương Cảng".
THIÊN
II
Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp
người
Thời gian và vũ đài hoạt động
trùng nhau
Cùng lên cũ đài, một ẩn một hiện
Ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam
Bệnh phổi trầm trọng, sức khỏe
suy giảm
Cùng tên nên có sự nhầm lẫn
Hồ sơ Hồ Tập Chương bị bắt ở
Quảng Châu
Những ghi chép về sự kiện Hồ
Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu
Lương Ích Tân viết về sự kiện
Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu
Ngô Trọc Lưu ở Đài Loan và trường
thiên tiểu thuyết "Hồ Chí Minh"
Hồ Tập Chương bị bắt ở Hà Nam,
giam tại nhà ngục "Nam Thạch Đầu"
"Hồi ký Trịnh Siêu
Lân": Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu
Bí mật "Hồ Tập Chương bị
bắt ở Quảng Châu"
Tiểu sử giản lược Hồ Tập
Chương
Tiểu sử Nguyễn Ái Quốc
Phụ lục1
Ảnh của Nguyễn Ái Quốc
và Hồ Chí Minh trong hồ sơ
Phụ lục 2
"Hồi ức Trịnh Siêu Lân -
Truyện Phó Đại Khánh"
THIÊN III
Những năm tháng Phiêu bạt
Màn một
Hồ Chí Minh ở Liên Xô (1933-
1938)
Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa vào thời gian nảo?
Sự thật về sự kiện Hồ Chí Minh
bị kết án tử hình
Quốc tế cộng sản đạo diễn vở kịch
"Mượn xác hoàn hồn"
Vera Vasilieva và Hồ Chí Minh
Việc cải tạo và học tập của Hồ
Chí Minh
Đại hội đại biểu Quốc tế cộng
sản lần thứ VII
Hồ Chí Minh rời khỏi Mạc Tư
Khoa
Màn hai
Hồ Chí Minh ở Trung Quốc (1938
- 1945)
Ngàn dặm xa xôi đến Diên An
Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm
Ban huấn luyện cán bộ chiến
tranh du kích Hành Sơn, Hồ Nam
Đảng bộ Hải ngoại Đảng Cộng sản
Đông Dương
Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng
minh
Bị bắt ở Quảng Tây và tập thơ
"Nhật ký trong tù"
Trở lại Bắc Pha, tháng tám khải
ca
Con người thật của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh chấp hành
"nhiệm vụ bí mật"
"Đài Loan nhật nhật tân
báo"
Bảy bức thư từ Trung Quốc
Mười một (11) bài viết trong
"Cứu vong nhật báo"
Hồ Chí Minh ngụy tạo sự kiện
Nguyễn Ái Quốc sống lại
THIÊN IV
Khúc ca buồn về chuyện hôn
nhân tình ái
Hồ sơ hôn nhân Hồ Chí Minh
Chuyện hoang đường về đạo đức
thánh nhân
Cầu trả về cầu đường trả về đường
Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc
với cô Breiere
Breiere và Bourdon
Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc
Nghi án ái tình giả tạo
Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu
tiên của Nguyễn Ái Quốc
Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa
Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa
Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn
nhân Tăng Tuyết Minh
Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật
giả - một vụ án kép
Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già –
Tấm ảnh chân dung
Khói lửa chiến tranh chứng kiến
tình yêu – Nữ sĩ Nguyễn Thị Minh Khai
Tự khúc bi ca ái tình
Hồ sơ hôn nhân của Nguyễn Thị
Minh Khai
Sự thật về quan hệ hôn nhân
giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn
Thị Minh Khai
Hôn ước của Lê Hồng Phong và
Nguyễn Thị Minh Khai
Bí danh P.C.Lin của Hồ Chí
Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc
Hồ Chí Minh và tri kỷ má hồng
– Lâm Y Lan tiểu thư
Hồ sơ về mối tình Hồ Chí Minh
và Lâm Y Lan
Mối tình của Hồ Chí Minh và
Lâm Y Lan
Sự thật về mối tình của Lâm Y
Lan
Chuyện tình giữa Hồ Chí Minh
và Đỗ Thị Lạc
Mối tình của Hồ Chí Minh và
Nông Thị Xuân
Tổng kết về hôn nhân và tình
ái trong cuộc đời Hồ Chí Minh
THIÊN V
Chữ Hán “Nhật ký trong tù” và “Di
chúc”
Khả năng Trung văn của Hồ Chí
Minh
Quá trình Nguyễn Ái Quốc học tập
ngữ văn
Trình độ ngữ văn của Hồ Tập
Chương
Tập thơ “Nhật ký trong tù” của
Hồ Chí Minh
134 bài thơ trong tập “Nhật ký
trong tù”
“Nhật ký trong tù” là tác phẩm
của một người thuộc sắc tộc Khách Gia
Thư pháp chữ Hán của Hồ Chí
Minh
Di chúc của Hồ Chí Minh lúc
lâm chung
Nội dung “Di chúc” của Hồ Chí
Minh
Những nghi vấn về “Di chúc Hồ
Chí Minh”
Những bí mật về việc bảo tồn
di thể Hồ Chí Minh
THIÊN VI
Hạ màn và đôi lời cảm nghĩ
Lặng lẽ suy tư khi màn hạ
Ghi nhớ lời dặn, nhìn về tương
lai
Tài liệu tham khảo
Lời giới thiệu 1
Người kỳ lạ, chuyện kỳ lạ, sách kỳ
lạ
Mấy ngày trước, ngài hiệu trưởng
Lý Tú Bằng, một đồng sự đã hồi hưu cùng tác giả cuốn sách "Tìm hiểu về cuộc
đời Hồ Chí Minh" là Hồ Tuấn Hùng đến thăm tệ xá. Nghe Hồ quân nhẹ nhàng đi
tới, khiến tôi càng hiểu rõ về con người kỳ lạ, sự việc kỳ lạ về Hồ Chí Minh,
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, thực làm cho người ta phải đập bàn kinh sợ,
nên đã nhận lời viết mấy dòng thô thiển để bày tỏ lòng mình.
Điều khiến cho tác giả gọi là
"kỳ lạ", thứ nhất, Hồ Chí Minh đương nhiên là người Đồng La, Miêu Lật,
Đài Loan. Cái mà mọi người đều biết ở Hồ Chí Minh là, vào những năm bốn mươi,
năm mươi của thế kỷ XX, ông được xem là bậc anh hùng thời đại mà Đài Đảo của
chúng ta có vinh dự sinh ra, vốn là con người người bình thường, bỗng nhiên được
một nước khác tôn xưng làm Quốc Phụ.
Thứ hai, Căn cứ vào "Lời
nói đầu" của Hồ quân, Hồ Chí Minh và nhà văn hóa nổi tiếng Đài Loan Ngô Trọc
Lưu trước đây từng quen biết nhau. Ngô tiên sinh còn được coi là tác gia lớn
văn học Đài Loan viết tác phẩm "Đứa con côi châu Á". Theo cách hiểu của
Hồ quân, "Á thư" chính là viết về con người và sự nghiệp Hồ Chí Minh.
Trong ký ức các bậc cao niên gia đình tôi, Ngô tiên sinh từng nói, "Á
thư" nguyên tên là "Hồ Chí Minh", nhân vì các thủ lĩnh cộng sản
phụ họa theo, ở thời kỳ phản cộng, chống Nga Xô mãnh liệt, nên buộc phải đổi
thành "Hồ Thái Minh". Đến khi cuốn sách được được xuất bản tại Nhật lại
đổi tên một lần nữa thành "Đứa con côi châu Á". Khó mà tưởng tượng
Ông và Hồ Chí Minh lại là chỗ quen biết.
Thật ra trên đời này không thiếu
gì chuyện lạ, nhưng chuyện mà tác giả đã kể quả tình làm tôi choáng váng. Để
đáp lại lời thỉnh cầu của Hồ quân, tôi viết bài tự này.
Tháng 7 năm 2008
Tiền Tổng thống phủ Tư chính
Chung Triệu Chính
Lời giới thiệu 2
Tin có bằng chứng, bổ khuyết
và dựng lại lịch sử
Tôi quen biết tác giả Hồ Tuấn
Hùng đã hơn ba mươi năm, nói là bạn thân cũng không quá. Mấy năm trước, trong một
cuộc trò truyện mà tiếng Khách Gia gọi là "đánh trống miệng", ông nói
đã hoàn thành sự phó thác của gia tộc là tìm hiểu được người chú Hồ Tập Chương
đã mất tích nhiều năm trong thời loạn. Thật đáng tiếc là lúc đầu, gia tộc không
mấy tin tưởng, vì thế ông phải đầu tư thời gian, công sức sưu tầm tư liệu, dẫn
nhiều luận cứ từ các nguồn khác nhau, thậm chí còn nhiều lần ra nước ngoài, tìm
hiểu tại các văn khố lớn, cuối cùng đã viết được một công trình khảo cứu nổi tiếng,
dựng lại chân tướng lịch sử về con người Hồ Chí Minh. Tấm lòng của ông thật
đáng kính, tình cảm của ông thật đáng trân trọng.
Từ những chứng cứ có được, Hồ
quân đã vượt qua sự cách trở thời gian, sưu tầm vô số tài liệu lịch sử trong và
ngoài nước, các chứng này vừa sâu, vừa rộng với độ tin cậy cao. Sau nữa là
phương pháp trình bày, diễn giải chứng cứ, Hồ quân sử dụng phương pháp so sánh.
Những chỗ còn nghi ngờ hoặc do sự cách trở về không gian, thời gian thì lấy đa
số thắng thiểu số, từ sự chứng, chắp nối sự kiện, đặc biệt là dùng "Nhật
ký trong tù" đối chứng với tục ngữ, thành ngữ dân gian Khách Gia, có sự
cân nhắc, đắn đo. Từ đó, tác giả đã dựng lại chân tướng lịch sử qua sự sàng lọc,
bổ khuyết, không bỏ sót bất cứ việc lớn nhỏ nào liên quan đến cuộc đời Nguyễn
Ái Quốc cũng như Hồ Chí Minh bằng chứng cứ đủ sức thuyết phục và sự phân tích hợp
lý, trình bày khách quan, khoa học.
Hồ quân đã lấy tư cách thân tộc,
vì người chú mà tìm được lời giải câu đố khó. Về tình, ông đã tận lực làm việc
đến nơi đến chốn, về lý, ông luôn giữ được tinh thần khách quan, trung thực. Điều
may mắn cho cuốn sách là lý trí đã vượt lên trên tình cảm. Tôi khâm phục tư
cách của Hồ quân bèn viết bài tự này.
Ngày 10 tháng 8 năm 2008
Văn phòng luật sư pháp luật Kiệt
Chương
Luật sư Ông Nhị Đạo
Thay
lời tựa
Màn đầu bóc gỡ tấm mạng che huyền bí
Tấm mạng huyền bí che mặt Hồ Chí
Minh
C
|
ác nhà lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử hiện đại, ít nhiều
đều có những bí mật riêng giống như tấm mạng che mặt. Những bí mật này rất ít
khi được công khai minh bạch, trong đó, Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Việt
Nam là một trường hợp điển hình. Cho dù hiện giờ đã là thiên niên kỷ thứ hai, kỹ
thuật truyền thông hiện đại có mặt khắp nơi, Hồ Chí Minh yên nghỉ trong quan
tài thủy tinh tại lăng Ba Đình Hà Nội đã bốn mươi năm, nhưng hoàn cảnh gia
đình, lịch trình học tập, khả năng ngôn ngữ, lý tưởng động cơ cách mạng, thực
trạng hôn nhân, quá trình hoạt động tại Quốc tế cộng sản, thậm chỉ ngày sinh và
ngày mất cũng vẫn còn tồn tại rất nhiều nghi vấn. Mặc cho các tác giả viết truyện
ký tìm mọi cách lắp ghép tư liệu, cuối cùng, vẫn không thể nào dựng lại được và
trình bày một cách thuyết phục chân dung lịch sử Hồ Chí Minh.
Nhà sử học Việt Nam, giáo sư Nguyễn Thế Anh, tiến sĩ văn học
và nhân văn Đại học Sorbonne, Paris, Pháp, từng là giám đôc Đại học Thuận Hóa,
chủ nhiệm khoa Văn Sử Đại học Sài Gòn, giáo sư thỉnh giảng Đại học Harvard Hoa
Kỳ, chủ nhiệm khoa Lịch sử văn hóa Đông Dương, Đại học Sorbonne, đã dày công
nghiên cứu về Hồ Chí Minh và có những kiến giải độc đáo. Trong tác phẩm
"Con đường chính trị của Hồ Chí Minh", Nguyễn giáo sư từng nói:
"Cho dù không thiếu những tác phẩm viết về Hồ Chí Minh, cho dù ông đã mất
từ lâu, nhưng vẫn còn tồn tại khá nhiều nghi vấn và mâu thuẫn trong cuộc đời
nhân vật chính trị này. Do ông có thói quen che giấu quá khứ và những hoạt động
của mình, cố ý xóa sạch các dấu vết, vì thế, mọi cố gắng tìm hiểu những chi tiết
chân thực trong cuộc đời hoạt động của ông chẳng khác gì đứng trong đám mây mù
vần vụ mà thưởng hoa vậy. Vì thế, ta chỉ có thể suy đoán mà thôi. Hồ Chí Minh
có đến 3 cái tên giả, tự mình kể chuyện về mình đầy tràn sắc thái thần bí với
nhiều sự hàm hồ, vô vàn tình tiết nghi hoặc, chẳng những không thể phân tích rõ
ràng, mà còn bỗng nhiên tự tâng bốc mình với mục đích tuyên truyền cho sự nghiệp
chính trị hoặc là một thánh nhân. Tuy vậy, các nhà sử học đã trường kỳ nghiên cứu,
nỗ lực bóc gỡ dần lớp màn che phủ vốn làm chân dung Hồ Chí Mịnh bị biến dạng hoặc
bị tô vẽ thái quá qua các tác phẩm truyện ký, chỉ có điều là vẫn chưa tìm ra điểm
mấu chốt.
Nhà sử học Hoa Kỳ, giáo sư William J. Duiker, là một học giả
trác việt chuyên nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Thời kỳ chiến tranh Việt Nam, William
J. Duiker làm việc ở Đại sứ quán Hoa Kỳ, trước sau có gần ba mươi năm nghiên cứu
về Hồ Chí Minh, đã được một số Quỹ và Hội học thuật Hoa Kỳ tài trợ. William J.
Duiker cũng thông thạo các tiếng Anh, Pháp, Nga và Việt, đã vào đọc hầu hết các
thư viện lớn nhỏ châu Á, châu Âu và châu Mỹ, trong đó có nhiều lần cùng đi với
các quan chức chính quyền Việt Nam sưu tầm tư liệu có liên quan đến Hồ Chí
Minh, và đã tìm được những tài liệu quý hiếm.
Vào năm 2000, William J. Duiker hoàn thành tác phẩm
"Truyện Hồ Chí Minh", xuất bản bằng tiếng Anh, dày 700 trang, tuy
nhiên chính ông cũng phải thừa nhận, không thể nào tìm được những tài liệu ở cơ
quan đầu não, bởi luôn có sự ngăn cản việc tìm ra sự thật. William J. Duiker
nói: "Những tài liệu nằm ở Trung tâm Lưu trữ Hà Nội đều không cho người Việt
Nam và người nước ngoài thâm nhập tìm hiểu, nghiên cứu. Cũng như vậy, ta không
thể tìm những tài liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.
Nhà cầm quyền Trung Quốc và Liên Xô hầu như ít khi để lộ những thông tin thuộc
loại này.
Học giả Anh Quốc Sophie Quinn- Judge cũng là một chuyên gia
nghiên cứu về Hồ Chí Minh, từng được Quỹ Mike và Viện nghiên cứu Trung ương Đại
học London tài trợ. Bà đã đến Việt Nam, các nước Đông Nam Á và Nga Xô, tìm được
những chứng cứ mới nhất trong hồ sơ của Quốc tế cộng sản và tình báo Pháp làm
cơ sở cho công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Năm 2002, Sophie Quinn - Judge
đã xuất bản tại London cuốn sách "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí
Minh, 1919-1941". Trong lời
đầu, tác giả nói rõ, lấy "truyền kỳ về con người hai mặt" làm tiêu đề,
bởi vì, đối với Hồ Chí Minh còn rất nhiều điều nghi vấn, đặc biệt tiêu đề
chương sáu, dùng sự kiện "Chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc Tư Khoa",
coi đó là câu đố về chuyện sinh tử của Hồ Chí Minh, đồng thời đặt dấu hỏi nghi
ngờ.
Trong phần giới thiệu tóm tắt ở trang 6, Sophie Quinn-Judge
viết: "Hồ Chí Minh tìm mọi cách để giấu đi quá khứ của mình. Nhiều năm
qua, những thứ mà ông đã cung cấp toàn là loại "dật sự", thường là
mâu thuẫn nhau, không mấy liên quan đến cuộc đời thực. Đầu tiên là tập tự truyện
xuất bản vào năm 1949 tại Trung Quốc, năm 1950 được xuất bản bằng tiếng Pháp tại
Paris, mấy năm sau lại xuất bản tại Việt Nam với nhan đề "Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch". Qua cuốn sách, người đọc biết rất rõ
là, tất cả cái gọi là sự thật ấy đều do Hồ Chí Minh bịa đặt. (Tác giả nhận xét,
"Truyện Hồ Chí Minh", bút danh Trần Dân Tiên, bản Trung văn, "Ba
Nguyên thư ốc" Thượng Hải xuất bản năm 1949. Năm 1958, cuốn sách đổi tên
là "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch", xuất bản bằng
tiếng Việt tại Hà Nội).
Năm 1962, nhà Việt Nam học Bernard Fall phỏng vấn Hồ Chí
Minh, có hỏi đến những chi tiết mập mờ trong cuộc đời của ông, Hồ Chí Minh trả
lời: "Các ông già khi vui vẻ thường tự tạo ra cho mình một chút thần bí.
Tôi cũng bắt chước người xưa làm ra vẻ thần bí một chút, chắc ngài có thể hiểu
được". Việc này chẳng biết Bernard Fall có hiểu được hay không, nhưng
William J.Duiker trong cuốn sách nổi tiếng "Truyện Hồ Chí Minh" đã viết:
"Không khí thần bí bao bọc xung quanh Hồ Chí Minh luôn luôn được duy trì,
chí ít ra là trong các tác phẩm tự truyện như thế này".
Hồ Chí Minh có phải đến từ Đài Loan?
Vì sao cho đến lúc qua đời Hồ Chí Minh vẫn không tự nói ra
những bí mật của mình? Chấp nhận nằm trong quan tài thủy tinh để lại cho người
đời biết bao câu hỏi nghi ngờ? Vì sao các tư liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh
trong hồ sơ lưu trữ tại các nước Pháp, Anh Quốc (bao gồm cả Hương Cảng), Mỹ...
đến nay từng bước đã được giải mật, vậy mà nhà nước Việt Nam, Trung Quốc và Nga
vẫn xếp vào loại tuyệt mật, cất giữ trong hòm kín? Các chuyên gia, học giả
nghiên cứu về Hồ Chí Minh nhận thấy rất rõ, trong hồ sơ giản lược về cuộc đời
ông, trước sau đều phát sinh mâu thuẫn, nhưng không biết làm cách nào tìm được
cách giải thích hợp lý. Hàng loạt những sự kiện nghi vấn trên dường như tạo hứng
thú cho người ta bỏ nhiều thời gian, công sức tìm tòi tư liệu để viết về thân
thế Hồ Chí Minh. Việc này cũng giải thích vì sao, giới lãnh đạo cao cấp Việt cộng,
Trung cộng và Quốc tế cộng sản, phàm là các sử liệu có liên quan đến Hồ Chí
Minh, đều nhất loạt được che giấu, tô vẽ hoặc ngụy tạo.
Nhiều năm trước, một người bạn thương gia Đài Loan đã nói với
tôi: "Hồ Chí Minh là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La, ông có biết không?".
Tin đồn về Hồ Chí Minh thuộc Hồ tộc ở Miêu Lật, Đồng La đã hai lần tôi trực tiếp
nghe được. Thông tin này làm tôi vừa nghi ngờ vừa phấn khởi. Đây phải chăng là
dự báo về thân phận Hồ Chí Minh sắp được giải mật? Có một người họ Hồ, nhân
viên Đảng vụ Quốc dân đảng, thuộc dân tộc Khách Gia Quảng Đông, sinh vào năm
Dân Quốc thứ năm mươi, trong dịp về tế tổ họ Hồ ở Miêu Lật có hỏi thân phụ tôi:
"Hồ Chí Minh với ông là như thế nào mà có tin đồn ông ta cũng là người
Miêu Lật?" Một người nữa là thày thuốc họ Hà kể lại, năm 1945, ông đã theo
quân đội Quốc dân đảng đến
Hà Nội có nghe một người Hoa làm nghề buôn thịt lợn nói rằng, Hồ Chí Minh là
người đến từ Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan. Người anh họ của tôi cũng bảo: "
Năm Dân Quốc thứ sáu mươi, anh cùng ông chú đến Bộ Ngoại giao Đài Bắc hỏi thăm
tung tích Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) cùng những vấn đề liên quan đến thân phận
ông, nhưng không có được câu trả lời cụ thể. Thời gian gần đây tôi đã hai lần
được nghe từ miệng một thương nhân Đài Loan ở Việt Nam nói rõ, Hồ Chí Minh là
người Miêu Lật, Đồng La, nhưng không thể kiểm chứng được nguồn gốc thông tin, bởi
không một lãnh đạo chóp bu nào của Việt Nam chịu tiết lộ bí mật.
Từ Việt Nam, tin đồn Hồ Chí Minh là người thuộc họ Hồ sinh
quán ở Miêu Lật, Đồng La truyền về Đài Loan, khiến tâm trạng tôi vốn dĩ trầm lặng
bỗng nhiên như cháy bùng lên. Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam là người Đài
Loan! Như vậy, lời khẩu truyền được lưu trong ký ức gia tộc họ Hồ ở Miêu lật, Đồng
La thực ra chẳng phải là bí mật của Ông Trời, vấn đề là, chưa tìm được chứng cứ
đủ sức thuyết phục mà thôi. Trước đây ít năm, gia tộc có phát hành nội bộ cuốn
sách "Giải nghĩa 'Nhật ký trong tù' của Hồ Chí Minh". Qua sơ bộ
nghiên cứu tư liệu thì Hồ Chí Minh đúng là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La. Đại
thể là, không có lửa làm sao có khói, chỉ tiếc sức lực có hạn, không tìm được
chứng cứ để liên kết các sự kiện. Mấy năm nay, các loại sách báo, tranh ảnh lưu
hành rất tiện lợi. Mạng Internet phát triển nhanh chưa từng thấy. Các sử liệu
liên quan đến Hồ Chí Minh lần lượt xuất hiện. Tin đồn Hồ Chí Minh là người Đài
Loan từng bước được lịch sử xác nhận qua các phương pháp giám định khoa học. Vì
thế, để tìm hiểu xem Hồ Chí Minh có phải là người Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan
hay không, cần phải khẳng định hai sự kiện sau:
1 - Hồ Chí Minh thời kỳ (1890 - 1932) là Nguyễn Ái Quốc của
Việt Nam.
2 - Hồ Chí Minh thời kỳ (1933 - 1969) là Hồ Tập Chương của
Đài Loan.
Nói cách khác, truyền kỳ về Chủ tịch nước Việt nam Hồ Chí
Minh, nửa đời trước là lãnh tụ cộng sản Việt Nam Nguyễn Ái Quốc, nửa đời sau là
nhân sĩ Quốc tế cộng sản Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan. Hai người cùng có quá
trình sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng đạt được những thành tựu trong cuộc
đời hoạt động.
Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
cũng là đại biểu Quốc tế cộng sản. Do đảng viên cộng sản Pháp Joseph Ducroix,
bí thư Công hội Thái Bình Dương, Quốc tế cộng sản bị bắt tại Singapore, sau khi
truy vấn, cảnh sát đã bắt được hai phái viên của Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản
là Hilaire Noulens ở Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc ở Hương Cảng. Không may, vào
mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc trên đường trốn chạy từ Hương Cảng đến Thượng
Hải bị mắc bệnh lao phổi qua đời.
Mùa hè năm 1929, Hồ Tập Chương từ Đài Loan đến Thượng
Hải, được Cục Viễn Đông phái đến làm việc tại "Liên minh mậu dịch Thái
Bình Dương". Cũng bởi có liên quan đến vụ án Hilaire Noulens, ông phải trốn
đến Quảng Châu rồi lại chạy sang Quảng Tây, Xiêm La, cuối cùng về Hạ Môn. Đầu
năm 1933, Hồ Tập Chương từ Hạ Môn đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa. Lúc này, chủ
quản bộ phận Việt Nam Quốc tế cộng sản là Vera Vasilieva đặt kế hoạch cho Hồ Tập
Chương 5 năm học tập cải tạo để biến thành Nguyễn Ái Quốc, nhằm phủ định sự thật
Nguyễn Ái Quốc đã chết, thay thế ông này, bước lên vũ đài lịch sử, diễn vở kịch
truyền kỳ Hồ Chí Minh "thật giả kiếp người".
Hồ Chí Minh nửa đời về sau (1933 - 1969) là Hồ Tập Chương,
người Đài Loan. Tuy nhiên, sự kiện động trời này chưa từng được lịch sử biết đến,
khiến các cho các chuyên gia nghiên cứu hoặc độc giả có hứng thú với nhân vật Hồ
Chí Minh vừa sững sờ vừa nghi vấn. Các chứng cứ của luận điểm này? Độ tin cậy của
thông tin như thế nào? Nguồn gốc của tư liệu ở đâu? Mối quan hệ nhân quả về thời
gian, không gian và tính logic của vấn đề?
Về trình tự làm cuốn sách, trước hết là trình bày việc lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và chết bởi bệnh lao phổi vào
mùa thu năm 1932. Phần tiếp theo sẽ chỉ ra, Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không
phải là một người, cuối cùng nói đến nửa phần đời sau của Hồ Chí Minh chính là
Hồ Tập Chương đến Từ Đài Loan. Nội dung cuốn sách này hoàn toàn đảm bảo tính
khách quan và tính hợp lý với mục đích chỉ để làm rõ một tiên đề giả thiết Hồ
Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không phải là một người. Trong quá trình khảo cứu,
tôi đã tìm hiểu, so sánh, đối chiếu cẩn trọng các tư liệu liên quan đến cuộc đời
Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, muốn làm một việc công bằng là trả lại sự thực vốn
có cho lịch sử, đồng thời để tìm ra lời giải câu đố "Sự bí ẩn trong chuyện
sinh tử của Nguyễn Ái Quốc". Từ sự bí ẩn về thân phận Hồ Chí Minh, tôi đề
xuất 5 luận chứng đồng thời cũng là nhan đề của 5 thiên trong "Tìm hiểu cuộc
đời Hồ Chí Minh" như sau:
1 - "Hài kịch tráo rồng đổi phượng" (Nguyễn Ái Quốc
chết mà sống lại).
2- "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người" (Nguyễn
Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng lên vũ đài lịch sử).
3 -"Cuộc sống lưu vong phiêu bạt" (Hồ Chí Minh ở
Liên Xô và Trung Quốc).
4- "Khúc bi ca về tình yêu và hôn nhân" (Sự thật
về tình yêu, hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh).
5 - "Nhật ký trong tù và Di chúc" (Làm rõ khả
năng Hán văn của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh).
Từ cách nhìn lịch sử ở những góc độ khác nhau, lật lại sự
kiện Nguyễn Ái Quốc chết bệnh vào năm 1932, và Hồ Chí Minh của năm 1933 là Hồ Tập
Chương đến từ Đài Loan tiếp tục tiếp tục đăng đài thực hiện nhiệm vụ Quốc tế cộng
sản giao phó, rất mong được các chuyen gia học giả cùng bạn đọc chỉ
giáo.
Hồ Tuấn Hùng
THIÊN
I
Hài
kịch tráo rồng đổi phượng
Màn một
Sự thật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc
Những ẩn số về con người Hồ Chí Minh
T
|
rong tiểu sử Hồ Chí Minh, một câu hỏi luôn được đặt ra, ông
là Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam hay là Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan? Đây là
vấn đề vô cùng quan trọng. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932? Người
tiếp tục đóng vai ông liệu có phải là Hồ Tập Chương? Các tác giả viết truyện ký
về Hồ Chí Minh vào thời điểm 1932 đều khá mơ hồ, thậm chí còn tỏ ra không ít
nghi ngờ. Vì vậy không có cách nào chứng thực được cái chết của Nguyễn Ái Quốc,
nơi mai táng di thể cũng như thân phận của Hồ Tập Chương tiếp tục vai trò của
ông. Vì thế, các học giả nghiên cứu về Hồ Chí Minh, cho đến nay, chỉ sử dụng những
tư liệu chính thống do nhà nước Việt Nam biên soạn như "Truyện Hồ Chí
Minh" hoặc "Hồ Chí minh và vấn đề văn hóa" v.v...nhằm ngoa truyền
Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Nhân đó khẳng định thân phận chân chính Hồ
Chí Minh cùng những chi tiết thật giả lẫn lộn không thể phân biệt, đề lại cho hậu
thế một nhân vật nhuốm màu thần bí.
Nghiên cứu kỹ những ghi chép về hoạt động của Hồ Chí Minh từ
năm 1933 đến năm 1945, ta sẽ thấy một số không nhỏ những điều vô lý được sử dụng
qua hàng loạt chứng cứ ngụy tạo. Có thể dẫn chứng, người mà năm 1933 từ Hạ Môn
đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa tuyệt đối không phải Nguyễn Ái Quốc mà là một
người khác. Tình yêu và hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cũng hoàn
toàn khác nhau. "Nhật ký trong tù" không phải do Nguyễn Ái Quốc sáng
tác. Tất cả đều là những vấn đề lớn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn. Vì thế phải
làm rõ một điều, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc,
hai người này không thể là một. Từ đó mới có thể xác định Nguyễn Ái Quốc đã chết
vào năm 1932. Chết mà sống lại khiến người ta nghĩ đến trò chơi "mượn xác
hoàn hồn", "dời hoa tiếp cây".
Nguyễn Ái Quốc chết thật hay chết giả?
Nguyễn Ái Quốc nhiều năm đã mắc chứng lao phổi, tháng 6 năm
1931 bị cảnh sát Hương Cảng bắt, được chuyển đến bệnh xá nhà giam điều trị, đầu
năm 1932 mất tích, đến khoảng giữa tháng 7 và tháng 8 thì các báo đưa tin chết
vì bệnh lao phổi. Cũng thời gian này các báo Hương Cảng, Anh Quốc, Pháp Quốc và
Nga Xô đều viết, sau khi Nguyễn Ái Quốc từ Singapore trở lại Hương Cảng, không
rõ lý do mất tích, sau đó bị bệnh qua đời. Thời gian này, nhóm lưu học sinh Việt
Nam tại trường Đại học Phương Đông, Mạc Tư Khoa đã cử hành lễ truy điệu. Phái
viên Quốc tế cộng sản đến thăm hỏi chia buồn. Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc của cảnh sát
Pháp năm 1933 cũng ghi chú Nguyễn Ái Quốc đã chết. Thế nhưng, mãi đến mười năm
sau, một nhân viên tình báo Pháp lại gửi báo cáo về Paris khẳng định Nguyễn Ái
Quốc đang hoạt động ở vùng biên giới Việt - Trung. Chính phủ Pháp gửi điện trả
lời: "Vô lý, chắc anh bị bệnh tâm thần nên mới chuyển về nước tin tức vớ vẩn
này. Nguyễn Ái Quốc đã chết ở Hương Cảng vào đầu những năm 1930". Những
tài liệu gốc nằm trong hồ sơ Nguyễn Ái Quốc được nhắc đến từng đăng tải trên
báo chí đều là những tư liệu lịch sử từ năm 1932 đến năm 1941 đáng tin cậy.
Trong khoảng mười năm, Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn biệt vô âm tín, không có bất cứ
ghi chép nào về hoạt động của ông, nhưng lại có một người khác, xưng danh là
Nguyễn Ái Quốc, tiếp tục sự nghiệp của ông., Đó là Hồ Tập Chương. Thế thân Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Tập Chương phủ nhận cái chết vì bệnh phổi với lý do, vì có nhiệm vụ
quan trọng phải rời Hương Cảng nên đã tung tin cái chết giả với báo chí. Quốc tế
cộng sản và các yếu nhân Trung cộng đều ra sức che dấu những hoạt động của Hồ
Chí Minh (Hồ Tập Chương) từ năm 1929 đến năm 1933, mặt khác lại không ngừng
dùng báo chí tuyên truyền khẳng định Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc vẫn hoạt
động trên vũ đài chính trị. Ví như năm 1933, người ta đã tạo ra một hình ảnh
Nguyễn Ái Quốc giả gặp người bạn Pháp là Vaillant Couturier tại Thượng Hải rồi
tung lên các báo với ý đồ, làm cho người đời tin rằng, từ năm 1933, Nguyễn Ái
Quốc vẫn hoạt động tại Thượng Hải, để đạt được mục đích "dời hoa tiếp
cây". Gần mười năm sau khi Nguyễn Ái Quốc chết, ngày 6 tháng sáu năm 1941,
lần đầu tiên Hồ Chí Minh công khai danh tính Nguyễn Ái Quốc trong bài "Thư
gửi đồng bào toàn quốc" kêu gọi nhân dân Việt Nam đứng lên làm cách mạng,
giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
Theo những mẩu chuyện tự kể về cuộc đời Hồ Chí Minh, những
năm tháng sau khi Nguyễn Ái Quốc chết, rồi được làm cho sống lại từ màn kịch
"dời hoa tiếp cây", nói rằng: " Mùa xuân năm 1932, Nguyễn Ái Quốc
bí mật đến Hạ Môn chữa bệnh nửa năm, đầu năm 1933, từ Hạ Môn đến Thượng Hải,
sau đó từ Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa". Đó chính là trò chơi "ve sầu
thoát xác" tạo nên một Hồ Chí Minh từ xác chết Nguyễn Ái Quốc được phù
phép cho sống lại.
Sự thật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc rất rõ ràng, nhưng lịch
sử bị bóp méo, ngụy tạo ra cách giải thích, ông phải chạy trốn sang Pháp do bị
đặc vụ săn đuổi. Tất cả những việc làm trên đều thực hiện bởi bàn tay Quốc tế cộng
sản cùng giới lãnh đạo chóp bu Trung cộng, Việt cộng, chỉ nhằm một mục đích, bắt
buộc người ta phải thừa nhận Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc.
Báo chí đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh laophổi
Sophi Quinn Judge trong tác phẩm "Những năm tháng mất
tích của Hồ Chí Minh, 1919 - 1941", đặc biệt tại chương 6, đã trực tiếp lấy
việc Hồ Chí Minh "chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc Tư Khoa" làm tiêu
đề, đã nhận thấy có cái gì đó mù mờ trong chuyện sinh tử này. Sự nghi ngời của
Quinn Judge phải chăng căn cứ từ các bài báo đương thời nhưng không có những tư
liệu đáng tin cậy làm cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, trong năm ấy, báo chí cộng sản
lại lần lượt đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết do bị lao phổi. Ví như tờ "Sự thật"
của đảng Cộng sản Liên Xô, tờ "Nhân đạo" của đảng Cộng sản Pháp, tờ
"Lao động" của đảng Cộng sản Anh, đặc biệt, nhóm lưu học sinh Việt
Nam tại Đại học Phương Đông, Mạc Tư Khoa đã cử hành lễ truy điệu Nguyễn Ái Quốc,
Quốc tế cộng sản cũng phái đại biểu đến chia buồn.
1 - Trong tác phẩm "Hồ Chí Minh ở Trung Quốc",
giáo sư sử học Đài Loan Tưởng Vĩnh Kính, trang 74 - 75, đã viết:
Đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc sang Singapore nhưng bị cảnh
sát bắt quay lại Hương Cảng, sau đó thì mất tích, nhưng phía Anh Quốc cũng
không công bố việc này. Sau khi Nguyễn Ái Quốc mất tích, các báo đều đưa tin
ông bị ho lao nặng và qua đời trong nhà giam. Những báo này bao gồm cả của nhà
đương cục Pháp - Việt thực dân cho đến của các đảng Cộng sản như tờ "Lao động"
của đảng Cộng sản Anh, tờ "Nhân đạo" của đảng Cộng sản Pháp, đến các báo của
Nga Xô đều đăng tải tin Nguyễn Ái Quốc bị bệnh lao phổi chết. Nhóm lưu học sinh
Việt Nam tại Đại học Phương Đông, Mạc Tư Khoa cử hành tang lễ, phái viên Quốc tế
cộng sản đễn viếng và chia buồn. Hồ sơ của cảnh sát Pháp năm 1933 đã ghi chép về
sự kiện này và chú thích "Nguyễn Ái Quốc đã chết tại Hương Cảng".
(Tác giả nhận định: Báo chí Nga Xô cụ thể là tờ "Sự thật" (Pravda),
xem cuốn "Chủ tịch nước Việt Nam", Lý Gia Trung biên dịch, trang 224)
Những ghi chép của Tưởng giáo sư cùng các bài báo có liên
quan đến cái chết của Nguyễn Ái Quốc dẫn từ "Bác Hồ" của Hoài Thanh,
Thanh Tịnh, NXB Ngoại văn, 1962 và "Hoang Van Chi, From Colonialism to
Communism" Ferederick A.Praeger, inc,1965 二書.(Hoàng Văn Chi, "Từ chủ nghĩa thực dân đến chủ nghĩa cộng
sản" Ferederick A.Praeger,
inc,1965, 2 quyển).
2 - Trong cuốn "Truyện Hồ Chí Minh", trang 209 và
212, William J. Duiker viết:
Vào ngày 11 tháng 8 năm 1932, tờ nhật báo "Công
nhân" của Quốc tế cộng sản phát hành tại London, đăng tin Nguyễn Ái Quốc
chết trong nhà giam. Nhóm lưu học sinh Việt Nam tại trường Đại học Stalin sớm
đã biết tin Nguyễn Ái Quốc qua đời vì bệnh lao phổi nặng và tổ chức lễ truy điệu,
cũng như trước đó, vào năm 1931, họ đã tổ chức lễ truy điệu Tổng bí thư Trần
Phú chết ở nhà tù thực dân Pháp tại Việt Nam.
Những ghi chép của William J. Duiker thật ra không rõ ràng
vì không dẫn được tư liệu gốc có tính thuyết phục. Những nghiên cứu của giáo sư
Tưởng Vĩnh Kính, về đại thể là giống nhau, chỉ khác về tiểu sự nếu đem so sánh
với các tư liệu viết về Hồ Chí Minh trong tác phẩm "Bác Hồ" của Hoài
Thanh và Thanh Tịnh do NXB Ngoại văn ấn hành năm 1962.
3 - Sophie Quinn-Judge trong "Những năm tháng mất tích
của Hồ Chí Minh, 1919- 1941", trang 194 đã viết:
Tháng 9 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc thừa nhận mình bị lao phổi.
Trong một bức thư gửi Bộ Ngoại giao năm 1932, Tổng Lãnh sự Pháp tại Hương cảng
Soulange Teissier cũng chứng thực Nguyễn Ái Quốc bị nhiễm lao mạn tính. Mùa hè
năm 1932, lần đầu tiên một tờ báo viết: "Người (Nguyễn Ái Quốc) bị bệnh
lao, thân thể suy nhược này chính là một lãnh đạo quan trọng của Việt
Nam". Các báo Cộng sản tháng 8 năm 1932 đều đồng loạt đưa tin Nguyễn Ái Quốc
qua đời bởi bệnh phế kết hạch (bệnh lao phổi).
Bí mật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc
Tin Nguyễn Ái Quốc bị bệnh qua đời vì sao chỉ có các báo Cộng
sản đăng tải? Vì sao lưu học sinh Việt Nam tại Mạc Tư Khoa tổ chức tang lễ? Lại
vì sao đến mười năm sau Hồ Chí Minh mới giải thích việc mình chết rồi sống lại
chính là một màn kịch để trốn khỏi Hương Cảng?
Đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc mất tích từ Hương Cảng, bí mật
đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa. Kế hoạch này này là do Quôc tế cộng sản đạo
diễn, vì thế chỉ có báo chí Cộng sản đưa tin. Có thể thấy, thời gian sau khi
Nguyễn Ái Quốc chết, Quốc tế cộng sản vẫn chưa có ý định "cấy" Hồ Chí
Minh thay thế ông ta, cho nên báo chí Cộng sản mới đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết
vì bệnh lao phổi và lưu học sinh Việt Nam tại Mạc Tư Khoa mới tổ chức lễ truy
điệu.
Về cái chết của Nguyễn Ái Quốc, sau khi các báo đưa tin, tất
cả đều im lặng, tuyệt nhiên không thấy Quốc tế cộng sản có bất cứ động thái gì.
Trong khi ấy, liên lạc viên Cục Viễn Đông của Quốc tế cộng sản là Hồ Tập
Chương, từ Thượng Hải đã đến Mạc Tư Khoa vào năm 1933. Hồ Tập Chương đã nhiều lần
cùng làm việc với Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt đã tham gia Ban Trù bị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, lúc này, Quốc tế cộng sản yêu cầu Hồ Tập Chương thay
thế thân phận Nguyễn Ái Quốc, tiếp tục tham gia phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Tập Chương (bí danh P.C.Lin), qua 5 năm,
được sự giáo dục, cải tạo của Quốc tế cộng sản, lại đổi tên là Hồ Quang, Hồ Chí
Minh hoạt động tại vùng biên giớ Việt Trung. Cố nhiên, đây mới là chỉ dấu ban đầu
nghi ngờ về cái chết của Nguyễn Ái Quốc và thân phận thực của Hồ Chí Minh sau
khi đã đồng nhất với Nguyễn Ái Quốc.
Phải chăng, Nguyễn Ái Quốc đã chết vào mùa thu năm 1932 bởi
bệnh lao phổi? Căn cứ vào hoàn cảnh lúc ấy mà suy đoán thì hầu như có thể khẳng
định đó là sự thật. Theo hồi ức Lưu Đức Phương, một đảng viên Cộng sản Việt
Nam, thì từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc nỗ lực hoạt động vượt bậc.
Chín trăm ngày đêm, công việc chồng chất như núi, ông phải làm việc thâu đêm,
thân thể suy nhược, và nhất là ho rất nhiều, có lúc khạc ra máu. Từ tháng bảy đến
tháng chín năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết 6 bức thư gửi Cục Viễn Đông, trình bày
về việc mình bị bệnh lao phổi nặng, thường ho ra máu, thân thể suy nhược. Cuối
tháng mười một năm 1931, Nguyễ Ái Quốc viết thư gửi đồng chí Lam Đức Thư của
"Liên minh thanh niên cách mạng": "Tình trạng sức khỏe của tôi
hiện rất nguy kịch, bệnh cũ tái phát, thường xuyên ho ra máu, rất đáng lo ngại,
sợ rằng có thể chết trong ngục bất cứ lúc nào". Năm 1932, tình báo viên
Anh Quốc là Paul Draken, dùng thủy phi cơ đưa Nguyên Ái Quốc rời Hương Cảng đã
nhìn thấy "Nguyễn Ái Quốc quá mệt mỏi, ho liên tục, gần như không còn sức
để nói".*
Như trên đã trình bày, Từ khi rời Hương Cảng trốn đến Thượng
Hải, tình trạng bệnh tật Nguyễn Ái Quốc đã khá trầm trọng, lại trải qua chặng
đường dài vô cùng vất vả, vì thủy phi cơ rất xóc càng làm tổn hại sức khỏe. Huống
nữa, sau khi lên bờ, đặc vụ Quốc dân đảng, cảnh sát tô giới Anh, với cặp mắt
nhà nghế, luôn theo dõi nhất cử nhất động của những người cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc đâu dám công khai tìm thầy thuốc chữa bệnh mà chỉ cố chịu đựng để nhanh
chóng đến được Mạc Tư Khoa. Cho nên ông bị chết ở Mạc Tư Khoa là hoàn toàn có
thể xảy ra. Chính vì vậy, báo chí Cộng sản từ tờ "Sự thật" của Nga Xô
đưa tin đầu tiên, sau đó đến tờ "Nhân đạo" của Đảng Cộng sản Pháp, tờ
"Lao động" của Đảng Cộng sản Anh lần lượt đăng tải tin Nguyễn Ái Quốc
chết vào tháng 7 và tháng 8 năm 1932. Cùng thời gian này, nhóm lưu học sinh Việt
Nam tại Đại học Phương Đông đã tổ chức tang lễ cho Nguyễn Ái Quốc. Từ đó suy
ra, Nguyễn Ái Quốc đã qua đời trên đường đến Mạc Tư Khoa, chôn cất tại Mạc Tư
Khoa là sự thật, tuyệt đối không phải như Hồ Chí Minh tự thuật sau này nói về
cái chết giả để tránh bị cảnh sát truy đuổi.
Chú thích:
* Dẫn từ: Paul
Draken "Nhật ký Paul Draken- Ghi chép về Nguyễn Ái Quốc". "Nhật
ký Paul Draken" chính là cuốn hồi ký mà nội dung trong đó có nhật ký của
thân phụ ông là nam tước Draken chưa kịp xuất bản. Nhật ký thuật lại chuyến đi
mạo hiểm của nam tước Draken từ năm 1900. Đầu năm 2000, "Nhật ký Paul
Draken có kèm theo tranh ảnh được chuyển cho ngài Diêu Khai Dương thuộc Viện Bảo
tàng Trung Quốc toàn quyền xử lý. Sau này Diêu Khai Dương viết thư xin ý kiến
Paul Draken trao bản quyền cho tập đoàn YAO xuất bản và phát hành. "Nhật
ký Paul Draken" có thiên thứ ba "Trân châu Trung Quốc"
(1929-1932), chương 12, lấy tên Nguyễn Ái Quốc làm nhan đề chia ra hai phần
"thượng", "hạ" ước khoảng ba nghìn chữ, kể lại việc ông
tham gia vào kế hoạch giải cứu Nguyễn Ái Quốc. "Ghi chép về Nguyễn Ái Quốc"
kể lại quá trình xây dựng kế hoạch và thực hiện giải cứu Nguyễn Ái Quốc là tác
phẩm vô cùng quý giá, rất đáng đọc và suy ngẫm.
Sai lầm của Hồ Chí Minh về việc tự nhận "mình đã bị chết"
Liệu rằng Hồ Chí Minh có sự lật lọng khi nói đi nói lại nhiều
lần "mình đã bị chết"? Lúc thì ông bảo, đây chỉ là tin giả do nhà
đương cục Pháp công bố, lúc thì lại nói, luật sư Frank Loseby cố ý tung tin
Nguyễn Ái Quốc chết, tạo điều kiện thuận lợi để ông trốn khỏi Hương Cảng. Lại nữa,
trong các bản tiếng Việt như "Truyện Hồ Chí Minh" hay "Hồ Chí
Minh biên niên tùng thư", trước sau đã nhiều lần nhắc đến việc này, khiến
người ta rất khó tin là, Hồ Chí Minh "tự tuyên bố cái chết của mình với
báo chí, mục đích giữ an toàn khi rời khỏi Hương Cảng". Đặc biệt, Hồ Chí
Minh đã từng khẳng định: " Việc công bố cái chết của Nguyễn Ái Quốc là do
nhà đương cục Pháp cố ý bịa đặt nhằm mục dịch làm nhụt ý chí đấu tranh của nhân
dân Việt Nam". Cách giải thích như thế xem ra không đủ sức thuyết phục.
Tin Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi, lần đầu tiên được báo chí đăng vào
mùa thu năm 1932. Trong khi đó, Hồ Chí Minh lại tuyên bố mình trốn khỏi Hương Cảng
đến Hạ Môn vào tháng giêng năm 1933. Khoảng thời gian sai số cách nhau gần nửa
năm rất không phù hợp với thực tế. Công bằng mà nói, nếu đã tung màn khói cái
chết giả để tiện lợi cho sự trốn chạy, tất yếu phải tạo ra một thời gian tương ứng
phù hợp. Thế nhưng, ở đây lại có sự tiền hậu bất nhất những nửa năm, làm người
đọc hoàn toàn có quyền nghi ngờ. Hơn thế nừa, mãi sau nửa năm mới nói mình sống
lại, chỉ với mục đích duy nhất là muốn làm sáng tỏ lời tuyên bố về "cái chết"
từ mười năm trước.
Một mặt nói là mình không chết, mặt khác lại nói mình chết
để cho các đồng chí phải vất vả lo liệu tang lễ sau khi vừa tổ chức lễ truy điệu
Tổng Bí thư Trần Phú. Câu chuyện hoang đường đầy chất hoạt kê này rất bất hợp
lý chẳng khác gì kiều "gậy ông lại đập lưng ông", chẳng qua đó chỉ là
màn kịch nhằm mục đích "mượn xác hoàn hồn', "dời hoa tiếp cây"
được dàn dựng kỹ lưỡng mà thôi.
Hồ sơ bệnh án Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh
Đoàn Chủ tịch Trung ương Việt Nam đặc biệt thông báo:
"Chủ tịch Hồ Chí Minh bị bệnh tim nặng đã từ trần hồi 9 giờ 47 phút năm
1969". Đây là một sự dối trá. Nguyễn Ái Quốc chết vào tháng 8 năm 1932
do bệnh lao phổi, trong khi ấy, Hồ Chí Minh, sau 37 năm, chưa từng thấy có ghi
chép về việc chữa trị bệnh lao phổi trong hồ sơ, mà lại chết bởi bệnh tim. Hãy
cứ lấy năm 1933 làm điểm mốc trước sau để so sánh, quan sát, sẽ dễ dàng phát hiện
ra tình trạng bệnh lý rất khác nhau trong cùng một con người. Đây là vấn đề rất
quan trọng, xin cung cấp để bạn đọc tham khảo.
Hồ sơ bệnh lao phổi Nguyễn Ái Quốc
1 - Tháng giêng năm 1920, một đặc vụ Pháp là Eduard mang bí
danh Phúc Bắc (Phu bay) báo cáo: "Nguyễn Ái Quốc, Phan Chu Trinh là những
người mắc chứng viêm phế quản hoặc bệnh lao phổi. Họ không có điều kiện giữ gìn
sức khỏe, nên nói chung sinh hoạt khó khăn. ("Những năm tháng mất tích của
Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn-Judge, trang 28).
2 - Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc thay (...) viết bài,
tháng tám phải nhập viện đã gây trở ngại cho kế hoạch hoạt động. Lúc ấy, vai phải
Nguyễn Ái Quốc lở loét mưng mủ phải điều trị. Phải chăng đây là dấu hiệu của
căn bệnh lao? ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"-
Sophie Quinn-Judge, trang 30).
3 - Đầu năm 1921, sau Hội nghị Tours, Nguyễn Ái Quốc từng
nói, ông chẳng cần quan tâm đến sự thành bại của cách mạng thế giới mà việc cấp
bách trước mắt là vận mệnh dân tộc. Hai tháng sau đó, Nguyễn Ái Quốc bị nghi là
mắc bệnh viêm phế quản, phải vào bệnh viện điều trị sau một trận ốm.
("Truyện Hồ Chí Minh"- William J. Duiker, trang 173).
4 - Trước sau tháng chín năm 1924, Nguyễn Ái Quốc được Quốc
tế cộng sản tạm thời giao nhiệm vụ soạn thảo một bài về tình hình Đông Nam Á để
đăng trong chuyên san "Tin tức châu Á". Lúc ấy chưa xác định được
Nguyễn Ái Quốc mắc bệnh gì, Quốc tế cộng sản đưa ông đến Crime bên bờ Hắc Hải
nghỉ điều dưỡng khôi phục sức khỏe. ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J.
Duiker, trang 147).
5 - Ngày 25 tháng chín năm 1924, Nguyễn Ái Quốc gửi một bức
thư cho Voitinsky, trong đó có nói đến việc sẽ đi Trung Quốc để tăng cường sức
khỏe. Ngày 5 tháng chín, ông đến viện điều dưỡng điều trị một thời gian dài chứng
bệnh lao phổi. ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J. Duiker, trang 598).
6 - Từ năm 1925 đến năm 1927, gần chín trăm ngày đêm, công
việc của Hồ Chí Minh chất đầy như núi. Ông phải làm việc kiệt lực mới giải quyết
xong "tòa núi" ấy. Hồi ức Lý Đức Phương viết: "Lúc ấy Bác Hồ thường
dậy từ canh năm làm việc đến canh hai mới nghỉ, thân thể suy nhược, ho nhiều,
có lúc khạc ra máu". Sau khi thoát hiểm đến Mạc Tư Khoa, ông không thể
không đến bệnh viện chữa trị. ("Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh"-
Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam, trang 123).
7 - Cuối năm 1927, tôi nhận được chỉ thị của Chi bộ Đảng Cộng
sản Đông Dương thuộc Quốc tế cộng sản, nhưng lúc ấy đang lâm bệnh ở Thailand
hơn một năm, vì thế, không thực hiện được bất cứ nhiệm vụ nào. ("Những năm
tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn- Judge, trang
163).
8 - Nửa sau năm 1928, hồi ký Đặng Văn Chi viết: "Có một
thời gian Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu Đông y, hy vọng có thể tìm ra phương pháp
chữa bệnh lao phổi, vì vậy, sau này có báo cáo với một đồng chí Việt Nam ở
Hương Cảng, trình bày lý do ông ở Thailand hơn một năm mà không làm được việc
gì". ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"-
Sophie Quinn-Judge, trang 129, 163).
9 - Năm 1929, căn cứ vào lời kể của Lam Đức Thư, có tin nói
rằng, Nguyễn Ái Quốc ở nước Đức, sức khỏe không tốt. ("Những năm tháng mất
tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn-Judge, trang 143).
10 - Trong khoảng thời gian từ ngày 3 tháng bảy đến ngày 2
tháng chín năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết 6 bức thư gửi Cục Viến Đông. Trong thư
đề ngày 2 tháng chín, ông thú nhận từ ngày 13 tháng tám, sức khỏe đã suy sụp vì
bệnh lao phổi, chứng cớ là thở rất khó khăn, thỉnh thoảng lại thổ huyết, cơ thể
vô cùng mệt mỏi. ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh,
1919-1941"- Sophie Quinn-Judge, trang 177).
11- Tháng chín năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chính thức công bố
mình bị lao phổi nặng. Tổng Lãnh sự Pháp Soulange Teissier, trong một bức thư
viết vào năm 1932 gửi Bộ Ngoại giao cũng xác nhận, Nguyễn Ái Quốc mắc chứng lao
phổi mạn tính rất nặng. ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh,
1919-1941"- Sophie Quinn-Judge, trang 194).
12 - Trước sau trung tuần tháng sáu năm 1931, phu nhân luật
sư Frank Loseby tiếp tục vào thăm Nguyễn Ái Quốc, nhìn thấy thân thể nhà cách mạng
tiều tụy, đã nói với chồng, trước mắt đề nghị nhà đương cục đưa ông vào bệnh viện
điều trị. ("Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh "- Lý Gia Trung, cựu Đại
sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam, trang 200).
13 - Cuối tháng mười một năm 1931, Nguyễn Ái Quốc viết thư
gửi cho Ủy viên Liên minh thanh niên cách mạng Lam Đức Thư: "Hiện tại sức
khỏe của tôi rất nguy kịch, hơn nữa bệnh thổ huyết lại tái phát, tình hình này,
rất có khả năng chết ở trong ngục. Chỉ trách ông trời không cho tôi sống để tiếp
tục thực hiện lý tưởng cách mạng". ("Truyện Hồ Chí Minh",
William J. Duiker, trang 206).
14 - Cuối năm 1931, Nguyễn Ái Quốc được đưa tới bệnh viện
điều trị dưới sự canh gác nghiêm ngặt của cảnh sát. Cuối tháng mười hai, hoàng
thân Cường Để gửi một bức thư tỏ thái độ trân trọng và lo lắng về tình trạng bệnh
tật của Nguyễn Ái Quốc. Ông cũng gửi kèm theo 300 đồng để Nguyễn Ái Quốc mua
thuốc chữa trị, đồng thời đề nghị phải giữ gìn sức khỏe để phụng sự đất nước.
("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie
Quinn-Judge, trang 194).
15 - Đầu năm 1932, Khu mật viện Hoàng gia Anh Quốc mở phiên
tòa xử vụ Tống Văn Sơ tức Nguyễn Ái Quốc. Kết thúc phiên xử, Tòa tuyên án phóng
thích Nguyễn Ái Quốc. Tin vui đến Hương Cảng. Lúc ấy Tống Văn Sơ vẫn còn đang
điều trị tại bệnh viện. Sau chín lần ra tòa (1/8/1931- 19/9/1931), sức khỏe Tống
Văn Sơ đã quá suy nhược.("Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh ", Lý
Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam, trang 217).
16- Năm 1932, đại diện Bộ Ngoại giao Anh Quốc là Paul
Draken đến Hương Cảng gặp Nguyễn Ái Quốc. Paul Draken nói: "Tôi được cử đến
đây giúp ngài xuất cảnh, xin hỏi, ngài muốn đến nơi nào?". Nguyễn Ái Quốc
bảo: "Tôi muốn đến Liên Xô". "Tốt nhất là ngài nên qua đường Thượng
Hải" - Paul gợi ý- Tôi sẽ tháp tùng ngài đi Thượng Hải, sau đó, ngài sẽ
quyết định nên đến nơi nào". ("Nhật ký Paul Draken - ghi chép về Nguyễn
Ái Quốc").
17 - Năm 1932, Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) mất tích tại
Hương Cảng, các báo đều đưa tin sau khi Hồ Chí Minh bị cảnh sát Hương Cảng bắt
đã chết trong tù vì bệnh lao phổi. Các báo này bao gồm cả của chính quyền Pháp
lẫn các Đảng Cộng sản, như tờ "Lao động" của Đảng Cộng sản Anh, tờ
"Nhân đạo" của Đảng Cộng sản Pháp cùng các báo chí Liên Xô. ("Hồ
Chí Minh ở Trung Quốc"- Tưởng Vĩnh Kính, trang 74- 75).
18 - Trước đó, nhóm lưu học sinh Việt Nam tại học viện
Stalin đã biết Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi và đã lo tổ chức tang lễ,
như trước đó đã tổ chức tang lễ Tổng Bí thư Trần Phú chết trong nhà tù thực dân
Pháp tại Việt Nam. ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J. Duiker,
trang 212).
19 - Năm 1933, thời kỳ Hồ đến Mạc Tư Khoa, tình trạng sức
khỏe đã rất kém, lại bị lao phổi, thân thể gầy yếu, hai má hóp xám bệch, chốc
chốc lại ho, đờm dính máu. Trước đây không có điều kiện chữa trị bằng các loại
thuốc đặc hiệu, Hồ nghĩ ra cách điều trị riêng của mình: Sinh hoạt theo kỷ luật
khắt khe, tuyệt đối tuân thủ các chế độ đã đặt ra. Mỗi sáng sau khi thức dậy,
ông thường xuyên tập thể dục. Trong phòng luôn có quả tạ, dụng cụ luyện tập làm
nở lồng ngực. ("Hồ Chí Minh ở Trung Quốc"- Tưởng Vĩnh Kính, trang
182).
20 - Cuối năm 1944, thiếu úy Shaw đề nghị Hồ Chí Minh cùng
đến Côn Minh. Hồ Chí Minh và hai đồng chí thanh niên đi trước, trên đường qua Di
Lương bị cảm mạo do nhiễm lạnh phải
nghỉ lại vài ngày. Sau khi Hồ Chí Minh phục hồi sức khỏe, mọi người lại tiếp tục
lên đường. ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J. Duiker, trang 287).
21 - Cuối tháng ba năm 1945, sau chuyến công tác tại địa
khu Đông Khê, chúng tôi chuyển đến Xuân Sơn tổ chức mấy cuộc phát động quần
chúng, chính là lúc gặp Hồ Chủ Tịch từ Bắc Pha đi xuống. Tôi đi cùng Chủ Tịch một
đoạn. Trên đường Hồ Chí Minh lại lên cơ sốt rét (hoặc nhiễm ngược tật, chợt
nóng chợt lạnh. Khi nóng, nhiệt độ tăng cao, toàn thân hầm hập. Khi lạnh, hàm
răng run cầm cập, gọi là sốt rét). Đồng chí Phạm Việt Tử phải dùng bơm tiêm ký
ninh vào tĩnh mạch, nói rằng, loại thuốc này có hiệu quả cắt cơn ngay tức khắc.
Năm 1946, tôi công tác ở địa khu Tứ Liên bị một trận sốt rét. Y tá cũng dùng ký
ninh tiêm tĩnh mạch. Mũi kim vừa rút khỏi tay, tôi liền ngất đi, may có các đồng
chí xung quanh xúm vào cứu chữa, hồi lâu mới tỉnh lại. Sau đó hỏi bác sĩ tôi mới
biết, tiêm ký ninh vào tĩnh mạch vô cùng nguy hiểm. Trước đó, Phạm Việt Tử tiêm
tĩnh mạch Hồ Chí Minh mà không xẩy ra sự cố, quả là đại hạnh cho toàn dân Việt
Nam. ("Hạt thóc trên biển cả"- Hoàng Văn Hoan, trang 180- 181, NXB Giải
phóng quân, Trung Quốc, 1987).
22 - Tháng bảy năm 1945, Võ Nguyên Giáp kể: "Trên đường
từ Tĩnh Khê (Trung Quốc) về Việt Nam, bệnh cũ Hồ Chí Minh tái phát, nhiều ngày
liền sốt cao, hôn mê bất tỉnh. Chúng tôi tìm được một thày lang người dân tộc Đại
biết cách điều chế môn thuốc hạ nhiệt cho Bác uống mỗi ngày hai ba lần, cuối
cùng bệnh cũng thuyên giảm, sau đó mới tiếp tục công việc". Thế nhưng về
phía Hoa Kỳ, những ghi chép sự kiện này lại không đúng như vậy. Một y sĩ thuộc
Trung tâm chiến lược Hoa Kỳ (nhóm nhảy dù) chẩn đoán, Hồ Chí Minh ngoài bệnh sốt
rết còn mắc thêm chứng kiết lỵ. ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J.
Duiker, trang 301- 302).
23 - Vào năm 1950, sau khi Trung cộng chiếm được Trung Quốc,
báo chí Đại lục phần lớn đều đưa tin Hồ Chí Minh đến Trung Quốc chữa bệnh, tuyệt
nhiên không nói đến việc điều trị chứng lao phổi.
Tổng hợp các tư liệu về bệnh tình Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc):
Năm 1933, hồ sơ ghi chếp về bệnh sử Hồ Chí Minh đều liên
quan mật thiết đến chứng lao phổi, hoàn toàn phù hợp với căn bệnh lao phổi của
Nguyễn Ái Quốc năm 1932. Vậy mà sau năm 1933, hầu như không nói đến bệnh này
trong hồ sơ bệnh án Hồ Chí Minh. Cuối cùng, vào tháng 9 năm 1969, khi ông qua đời,
căn bệnh được công bố chính thức lại là bệnh tim. Trong khi ấy, nhiều hồ sơ ghi
chép về Hồ Chí Minh vào năm 1933, khi mới đến Mạc Tư Khoa, đều khẳng định sức
khỏe của ông rất tệ hại bởi bệnh lao phổi, thỉnh thoảng lại ho ra máu. Điều
này, đã được giáo sư Nguyễn Khánh Toàn kể lại trong hồi ký. Vậy mục đích của họ
là gì? Câu trả lời là: để tạo
điều kiện thuận lợi cho Hồ Chí Minh tiếp tục sự nghiệp cách mạng, đấu tranh giải
phóng dân tộc, cố ý giấu đi cái chết vì bệnh phổi của Nguyễn Ái Quốc, dùng thân
phận Hồ Chí Minh thay thế, tạo ra sự lẫn lộn trong bệnh sử của hai người.
Màn hai
Tiết mục Nguyễn Ái Quốc "chết rồi sống lại"
C
|
ăn cứ vào hồi ký của tình báo viên Anh Quốc Paul Draken,
khi ông này tham gia vào vụ giải cứu Nguyễn Ái Quốc chạy thoát khỏi Hương cảng
thì: "Vào đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Hương Cảng bằng thủy phi
cơ đến bến sông Hoàng Phố, Thượng Hải". Trong khi đó, các tác giả viết
truyện ký về Hồ Chí Minh lại dẫn dựng những tư liệu sau này về Hồ Chí Minh:
"Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng bằng thuyền đến Hạ Môn".
Hai tư liệu đương nhiên là không thống nhất, bởi thời gian này còn dính dáng đến
mùa thu năm 1932 báo chí đưa tin Nguyễn ái Quốc bị bệnh chết. Vì thế, xác định
được, thực chất Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng vào thời gian nào là vấn đề vô
cùng quan trọng.
Điều cần nói là, việc Nguyễn Ái Quốc chết có phải là sự thật?
Và Hồ Chí Minh có phải đã chơi trò ú tim chết rồi sống lại? Vì thế, nhất định
phải tìm được chứng cứ gốc, cẩn trọng so sánh, đối chứng các tài liệu thật giả
mới có thể xác định được sự kiện Nguyễn Ái Quốc bị bắt, bị thẩm vấn, bị mất
tích, và, cuối cùng là tử vong để trả lại công bằng cho lịch sử.
Vụ án Nguyễn Ái Quốc bị bắt tại Hương Cảng
Vào lúc 2 giờ sáng ngày 6 tháng sáu năm 1931, tại số nhà
186 phố Tam Long, Hương Cảng, cảnh sát Hương Cảng bắt Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái
Quốc bị bắt liên quan đến vụ Hilaire Noulens chấn động Trung Quốc một thời.
(Hilaire Noulens tên thật là Jakov Rudink, sinh năm 1894 tại Ukraine, liên lạc
viên của Quốc tế cộng sản tại Cục Viễn Đông). Bắt đầu là cảnh sát Anh Quốc cùng
với mật thám Pháp phối hợp, vào tháng sáu năm 1931, bắt được Joseph Ducroix. vốn
là đảng viên Cộng sản Pháp đang giữ chức Bí thư Công hội Quốc tế cộng sản.
Joseph Ducroix tên thật là Serge Lefrance, khai ra những bí mật của Cục Viễn
Đông đã cử Hilaire Noulens và Nguyễn Ái Quốc chia nhau đến Thượng Hải và Hương
Cảng, vì thế cảnh sát Anh đón lõng bắt được. Lúc ấy Serge Lefrance đăng ký địa
chỉ tại số nhà 186, phố Tam Long, Hương Cảng.
Vụ án "Tòa Hương Cảng thẩm vấn Nguyễn Ái Quốc"
Sau khi Nguyễn Ái Quốc bị bắt, chính quyền Pháp yêu cầu nhà
cầm quyền Hương Cảng dẫn độ về Hà Nội. Lúc này Quốc tế cộng sản thông qua
"Hội cứu tế đỏ" đề nghị có biện pháp cứu giúp bằng cách mời luật sư nổi
tiếng người Anh là Frank Loseby biện hộ cho Tống Văn Sơ. (Tống Văn Sơ là bí
danh của Nguyễn Ái Quốc ở Hương Cảng). Tòa án Hương Cảng đã có chín phiên xử
công khai thẩm vấn Nguyễn Ái Quốc, tạo thành một sự kiện quốc tế, khiến cả thế
giới phải quan tâm.*
Phiên thứ nhất mở ngày 1 tháng tám, chánh tòa Hương Cảng
phán quyết tội danh Tống Văn Sơ như sau: "Tống Văn Sơ tức Nguyễn Ái Quốc,
là tay sai của Nga Xô, phái viên Đệ tam quốc tế, đến Hương Cảng hoạt động phá
hoại, vì thế, đợi đến ngày 18 tháng 8 sẽ trục xuất khỏi Hương Cảng, áp giải về
Việt Nam trên chiếc tàu Algiers của Pháp". Vừa nghe chánh tòa tuyên án, trợ
lý của luật sư Loseby là luật sư J.C đã kịch liệt lên án việc bắt người trái
phép và giam trong ngục 14 ngày mà không trả tự do cho thân chủ của ông ta. Sau
một hồi tranh biện, pháp quan rung chuông tuyên bố Tòa tạm nghỉ.
Phiên thứ hai mở ngày 15 tháng tám, tranh luận và thẩm vấn
7 điểm qua các chứng cứ có tính hợp pháp của đương sự. Cuối phiên, Tòa phải thừa
nhận sai lầm và rung chuông tạm nghỉ.
Phiên thứ ba mở ngày 17 tháng tám. Thẩm phán trưởng tuyên bố,
nếu như tòa án không có khả năng giải quyết những vấn đề đã nêu ra..., nếu
không chấp nhận đưa lên tàu Algiers về Việt Nam thì sẽ đưa lên tàu "梅當埃將軍"
(Mai Đương Ai Tướng Quân), để đến ngày 1 tháng chín rời khỏi Hương Cảng.
Phiên xử thứ tư vào chiều ngày 17 tháng tám. Bắtt đầu phiên
tòa, thẩm phán trưởng nói: "Lệnh trục xuất Tống Văn Sơ đã được ký, đề nghị
không tiếp tục xử nữa". Luật sư J.C trong lòng mừng thầm, đồng ý với thẩm
phán trưởng và đề nghị, phiên xử cuối cùng vào thứ năm ngày 20 tháng tám. Như vậy,
nhà đương cục Hương Cảng không thể thực hiện lời hứa với chính quyền Pháp là trục
xuất Tống Văn Sơ vào ngày 18 tháng tám.
Buổi sáng và buổi chiều ngày 20 tháng tám là ngày xử phiên
thứ năm và thứ sáu. Không khí phiên tòa rất căng thẳng. Luật sư J.C đã đề nghị
ngày 12 tháng tám sẽ có lệnh trục xuất của Thẩm phán trưởng tại Tòa, vì sao mãi
đến ngày 15 tháng tám, trong phiên xử thứ hai mới có? Ông yêu cầu chuyển ý kiến
của ông đến Toàn quyền và Ủy viên hành chính Hương Cảng đối chất. Đến đây chánh
án tuyên bố Tòa tạm nghỉ, mời luật sư J.C bàn bạc. Phiên xử tiếp tục, pháp đình
đề xuất lý do 2 điểm trục xuất Tống Văn Sơ như sau:
1- Tống Văn Sơ tức Lý Thụy, cũng là Nguyễn Ái Quốc, là phần
tử Cộng sản, đặc phái viên của Đệ tam quốc tế, đã tuyên truyền những điều có hại
đối với an ninh Hương Cảng.
2 - Quê quán của Nguyễn Ái Quốc tại Đông Dương (An Nam), từ
năm 1929 đã bị tuyên án tử hình vắng mặt, chính quyền Đông Dương yêu cầu chính
quyền Hương Cảng dẫn độ về Đông Dương quy án.
Ngày 25 tháng tám, phiên tòa thứ bảy khai mạc, luật sư J.C
có bài có bài thuyết trình về vấn đề chính trị phạm. Tống Văn Sơ vì nền độc lập
dân tộc, tham gia vận động cách mạng, vì vậy không thuộc diện trục xuất mà pháp
luật Hương Cảng đề cập tới. Luật sư chỉ trích Thẩm phán trưởng, Công tố viên,
Pháp quan, Toàn quyền và Toàn quyền ủy viên hội đều chấp pháp sai lầm trong vụ
án Tống Văn Sơ. Tuy nhiên nhưng lời biện hộ đó chưa làm cho nhà đương cục Hương
Cảng thay đổi thái độ.
Phiên thứ tám mở vào ngày 2 tháng chín năm 1931. Tại phiên
xử này Chánh tòa Hương Cảng buộc phải thừa nhận:
- Bắt giữ Tống Văn Sơ là một sai lầm.
- Giam giữ Tống Văn Sơ trong ngục cũng là một sai lầm.
- Hỏi cung không phù hợp với trình tự tố tụng.
- Nhà đương cục Hương Cảng ngụy tạo lời khai của đương sự.
Tuy vậy, tại phiên xử thứ chín ngày 19 tháng chín năm 1931,
Tòa án vẫn cưỡng ép phán quyết trục xuất Tống Văn Sơ về Đông Dương. Luật sư J.C
cực lực phản đối. Ông tuyên bố sẽ gửi kháng nghị lên Viện Khu mật hoàng gia
London, Anh Quốc.
Chú thích:
* Sự việc có liên quan đến tòa án Hương Cảng thẩm tra, có
thể xem Dennis Ducanson "Hồ Chí Minh ở Hương Cảng, 1931- 1932", Nguyễn
Việt Hồng 1996 "Sự kiện 1931 ở Hương Cảng", Dennis J. Duncanson "Trung Quốc quý san", (tháng
1 đến 3 năm 1974), là tài liệu viết tay Nguyễn Việt Hồng dẫn dụng từ hồ sơ đã
giải mật của Anh Quốc ("Hoàng gia đáng án quán", năm 1931 Z225C,
HEIII,VOLIII/40 - 1240 hiệu quyển tông đích tư liệu).
Viện Khu mật Hoàng gia London xét xử - Chống án
Luật sư Loseby đã dự đoán, tTòa án Hương Cảng sẽ phán quyết
trục xuất Nguyễn Ái Quốc về Việt Nam, lập tức viết đơn kháng cáo lên Viện Khu mật
Hoàng gia Anh Quốc. Tòa Hương Cảng nhận đơn kháng án để chuyển về London với ba
điều kiện như sau:
1- Trong vòng 14 ngày đương sự phải đệ trình đơn kháng cáo.
2 -Trong vòng 90 ngày phải chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án về Viện
Khu mật.
3 - Nộp 500 dollars lệ phí.
Cả ba điều kiện này luật sư Loseby đều chấp nhận.
Do đơn kháng án phải qua thời gian mấy tháng thẩm định mà
Nguyễn Ái Quốc lại bị lao phổi trầm trọng, thân thể suy nhược nên ông được chuyển
từ nhà tù Victoria đến bệnh xá trại giam Bảo Vân Đạo điều trị.
Người biện hộ cho Nguyễn Ái Quốc là luật sư D. N. Pritt, biện
hộ cho nhà đương cục Hương Cảng là luật sư S. Cripps. Hai vị này đều là bạn của
luật sư Frank Loseby. Luật sư P. N. Pritt là con trai nghị viên cánh tả, huân
tước Palme. Luật sư Pritt đã thu thập đầy đủ thông tin vụ án từ luật sư Loseby.
Sau khi thống nhất kế hoạch trong nhóm, ông mời luật sư Cripps đề xuất kế hoạch
Tống Văn Sơ sẽ thắng trong phiên xử, hy vọng luật sư Cripps, vì tình bạn bè và
lương tâm nghề nghiệp, đứng ra bảo vệ công lý, bảo vệ chính nghĩa. Hai ông đã
thống nhất phương án giải quyết, tìm mọi cách buộc chính quyền Hương Cảng trả tự
do cho Tống Văn Sơ mà không mất thể diện.
Đầu năm 1932, Khu mật viện Hoàng gia Anh Quốc mở phiên tòa.
Luật sư D. N. Pritt và luật sư S. Cipps trình bày tóm tắt nội dung vụ án và
phát biểu ý kiến cá nhân sau đó đề xuất biện pháp giải quyết:
1 -Trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc.
2 - Nguyễn Ái Quốc chỉ cần rời khỏi Hương Cảng, sau đó có
thể đi đến bất cứ nơi nào mình muốn.
3 - Lúc ra đi và sử dụng phương tiện giao thông nào đều do
tự mình quyết định.
Khu mật viện Hoàng gia Anh Quốc đồng ý với kiến nghị trên,
đồng thời yêu cầu chính quyền Hương Cảng thông báo quyết định này. Cuối cùng,
ngày 27 tháng sáu năm 1932, luật sư hai bên đã có được kết quả chung, đề nghị
Viện Khu mật kết thúc vụ án. Nhà cầm quyền Hương Cảng chấp hành án quyết, trả tự
do cho Nguyễn Ái Quốc và cấp cho ông 400 dollars làm lộ phí.**
Chú thích
** London ("Hoàng gia Viện Khu mật - Thẩm thượng tố"
án, xem thêm Denis Duncanson
"Hồ Chí Minh ở Hương Cảng năm 1931 đến năm 1932", Nguyễn Việt Hồng
,1936 "Sự kiện Hương Cảng năm 1931" và "Truyện Hồ Chí Minh"
của William J, Duiker, trang 205-207, nội dung dẫn từ bức thư của Burton ngày 6
tháng tháng 10 năm 1932 gửi Bushe; bức thư của Cowell ngày 30 tháng 12 năm 1931
và của Howard Smith ngày 15 tháng 10 năm 1931 gửi chính phủ thực dân Shuck Burgh
đều còn lưu giữ tại chính quyền Hương Cảng. Sophie Quinn-Judge trong "Những
năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", trang 193 viết, nội dung dẫn
từ bức điện báo từ Hà Nội gửi đến Sài Gòn ngày 24 tháng 8 năm 1931 và ngày 31
tháng 12 năm 1931 do Cowell gửi (PRO CO 129/535/3 trang 27.
Vụ án Nguyễn Ái Quốc đến Singapore bị buộc phải quay lại
Hương Cảng
Đầu năm 1932, Khu mật viện Hoàng gia Anh Quốc mở phiên tòa
với phán quyết trả lại tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Do sự sắp xếp của luật sư
Loseby, ngày 6 tháng giêng năm 1932, Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng đến
Singapore. Tuy nhiên cảnh sát Singapore không cho nhập cảnh mà bắt ông phải
quay lại. Cảnh sát Hương Cảng buộc phải tiếp nhận Nguyễn Ái Quốc và hứa sẽ đăng
ký hộ khẩu. Ngày 19 tháng giêng năm 1932, cảnh sát Hương Cảng lại bắt Nguyễn Ái
Quốc. Nhà đương cục Hương Cảng chẳng cần để ý đến bản chất sự việc mà tuyên bố
Nguyễn Ái Quốc xuất cảnh trái phép, đến ngày 22 tháng giêng lại phóng xuất ông
với mệnh lệnh, nội trong 3 ngày phải rời khỏi Hương Cảng. Từ đấy Nguyễn Ái Quốc
mất tích.
Tường thuật sự kiện "Nguyễn Ái Quốc đến Singapore
nhưng lại buộc phải trở về Hương Cảng", các chuyên gia nghiên cứu đều có
quan điểm thống nhất về nội dung nhưng lại không nhất trí được với nhau vê thời
gian. Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này là bởi đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc tự nhiên mất tích mà không có bất
cứ tờ báo nào đưa tin. Sau này người ta chỉ
được nghe một câu chuyện có tính chất ngụy tạo về Hồ Chí Minh, là đầu năm 1933,
Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng đến Hạ Môn, nảy sinh một khoảng thời gian gián đoạn.
Liên kết thời gian "rời Hương Cảng" với "đến Hạ Môn" cùng sự
thật trước và sau đã xẩy ra, các chuyên gia, học giả rất dễ mắc sai lầm khi đem
thời gian "rời Hương Cảng" từ đầu năm 1932 kéo dài tới đầu năm 1933 tạo
ra sự sai lệch vừa tròn 1 năm.
Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính trong "Hồ Chí Minh ở Trung Quốc",
trang 74, cũng giống như Paul Draken trong "Nguyễn Ái Quốc" cùng nói
về thời gian Nguyễn Ái Quốc đến Singapore vào đầu năm 1932. Cựu Đại sứ Trung Quốc
tại Việt Nam Lý Gia Trung, trong "Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh
", trang 217 viết khá tối nghĩa: "Thời gian đến Singapore không thấy
có ghi chép, chỉ nói thời gian đầu năm 1933 rất vội vàng đến Hạ Môn". Thời
gian mà William J. Duiker cũng như Sophie Quinn- Judge ghi chép đều vào ngày 6
tháng giêng năm 1933 Nguyễn Ái Quốc đến Singapore. Như vậy, những ghi chép của
các nhà nghiên cứu chia thành hai phe rất không trùng khớp với nhau là "đầu
năm 1932" và "đầu năm 1933". Về lý mà nói, các học giả hữu quan
đều thống nhất nhận định đầu năm 1932, theo phán quyết của Viện Khu mật Hoàng
gia Anh Quốc, là đồng ý với đề nghị của luật sư hai bên, trả lại tự do cho Nguyễn
Ái Quốc, trong thời hạn 21 ngày phải rời khỏi Hương Cảng, vậy thì làm sao có thể
trì hoãn đến đầu năm 1933? Hơn thế, từ Hương Cảng đến Hạ Môn, đường đi cũng chỉ
mất một đến hai ngày, chẳng có lý do gì hành trình kéo dài những 1 năm. Lại nữa,
trong những hồ sơ liên quan đến Nguyên Ái Quốc, không tìm thấy bất cứ tài liệu
nào ghi chép về chuyến đi dài ngày này. Vì thế, nói rằng "có chuyến đi
Singapore vào đầu năm 1933" thật sự là vô lý.
William J. Duiker và Sophie Quinn-Judge đề dẫn tư liệu từ
"Hồ sơ Quân đội viễn chinh Pháp Quốc thuộc bộ phận hải ngoại", số hiệu
369 và của Dennis J. Duncanson trong "Hồ Chí Minh ở Hương Cảng, năm 1931-
1932", vậy làm sao có khả năng mãi đến đầu năm 1933 mới đi Singapore? Rất
khó giải thích. Và, nếu quả là vào đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc mới đi
Singapore thì rõ ràng mâu thuẫn với phần tiếp sau (thời gian Nguyễn Ái Quốc từ
Hạ Môn đến Thượng Hải).
William J.Duiker và Sophie Quinn-Judge đều là những học giả
chuyên nghiệp, làm việc nghiêm cẩn, thực tế không thể mắc sai lầm trong việc
xác định thời gian. Sở dĩ có tình trạng này là bởi các vị vẫn cho rằng Hồ Chí
Minh và Nguyễn Ái Quốc chỉ là một người, mà không biết rằng, còn có một nhân vật
khác ngoài Nguyễn Ái Quốc tham gia vào vở kịch này. Đó là lý do để người ta đem
thời gian từ ngày 6 tháng giêng năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đi Singapore, kéo dài
đến ngày 6 tháng giêng năm 1933, Nguyễn ÁI Quốc đi Hạ Môn liên kết thành một chỉnh
thể, để tạo ra sự ngộ nhận lịch sử.
Sự kiện "Nguyễn Ái Quốc đi Singapore bị buộc trở lại
Hương Cảng", cần xem thêm "Hồ Chí Minh ở Hương Cảng, năm 1931-
1932" của Dennis J. Duncanson và "Sự kiện Hương Cảng năm 1931" của
Nguyễn Việt Hồng. Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính trong "Hồ Chí Minh ở Trung Quốc",
trang 74, nội dung dẫn từ Bernard B.
Fall, "Le Vietminh 31" ( Librarie Armand Colin, 1960 see Hoang Van
Chi, P.50).
William J. Duiker trong "Truyện Hồ Chí Minh",
trang 208- 209, nội dung dẫn từ Dennis J. Duncanson "Hồ Chí Minh ở Hương Cảng
năm 1931- 1932", trang 99.
"Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh,
1919-1941"- Sophie Quinn-Judge, trang 193, nội dung dẫn từ "Hồ sơ
Quân đội viễn chinh Pháp Quốc thuộc bộ phận hải ngoại", số hòm 369".
"Nhật ký Paul Draken, ghi chép về Nguyễn Ái Quốc"
của Paul Draken.
Sự kiện Nguyễn Ái Quốc mất tích ở Hương Cảng
Đầu năm 1932 Nguyễn Ái Quốc đi Singapore, như vậy, thời
gian từ Singapore trở lại Hương Cảng cũng trong tháng giêng năm 1932, không thể
nào kéo mãi sang năm 1933. Hơn thế, trong năm 1933 không có bất cứ tờ báo nào
đưa tin Nguyễn Ái Quốc mất tích. Chuyện Nguyễn Ái Quốc trốn khỏi Hương Cảng đến
Hạ Môn đều là lời kể 16 năm sau của Hồ Chí Minh, bút danh Trần Dân Tiên trong
cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch". Nói
cách khác, sau khi Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Hương Cảng vào đầu năm 1932, không một
ai biết ông đi đâu, hành tung thật sự bí hiểm, vì thế mới thành sự kiện "mất
tích ở Hương Cảng". Mười sáu năm sau Hồ Chí Minh nói ngược lại: "Sau khi trốn khỏi
Hương Cảng, tôi đi Hạ Môn", việc này đích thị là trò bịp bợm.
1 - William J. Duiker trong "Truyện Hồ Chí
Minh", trang 209 viết:
Sau khi Nguyễn Ái Quốc bị buộc quay trở lại, nhà cầm quyền
Hương Cảng không thèm để ý đến bản chất sự việc, mà cho rằng ông ta xuất cảnh
trái phép, chẳng quan tâm đến kháng nghị của cảnh sát địa phương, tuy nhiên,
ngày 22 tháng giêng năm 1932, lại phóng thích ông, đồng thời ra lệnh trong vòng
ba ngàyphải rời khỏi Hương Cảng.Vợ chồng luật sư Frank Loseby lần này lại sắp xếp
cho Nguyễn Ái Quốc ở một nơi bí mật, sau đó tìm cách để ông rời khỏi Hương Cảng.
Kế hoạch được đặt ra là, Nguyễn Ái Quốc sẽ ra đi bằng tàu thủy đến Hạ Môn vào
ngày 25 tháng giêng trong vai một nhân viên phiên dịch. Để tránh con mắt lực lượng
bảo an Pháp, Nguyễn Ái Quốc đợi trời tối, được cảnh sát mặc thường phục hộ tống
xuống thuyền, rồi lại dùng xuồng máy của chính phủ Hương Cảng đưa ra ngoài eo
biển Lý Ngư là nơi tàu đậu đón khách.
2 - Sophie Quinn-Judge trong "Những năm tháng mất tích
của Hồ Chí Minh, 1919-1941"-, trang 195 viết:
Nguyễn Ái Quốc buộc phải trở về Hương Cảng, sau đó bị bắt lại
vào ngày 19 tháng giêng. Toàn quyền Hương Cảng William Peel ra quyết định
(không cần biết lý do) bắt giam Nguyễn Ái Quốc (là di dân trái phép) tống giam
thời hạn 1 năm theo quy định của luật pháp hiện hành, đồng thời cự tuyệt yêu cầu
của lãnh sự Pháp Teyssières. Sau đó Hồ Chí Minh rời khỏi Hương Cảng. Lần này
Frank Loseby thuyết phục đươc nhà cầm quyền Hương Cảng để ông tự chon nơi đến.
Toàn quyền Peel giải thích bằng công văn, cuối ngày 22 tháng giêng sẽ sắp xếp
cho Hồ Chí Minh lên một chiếc thuyền (không phải của chính phủ Hương Cảng) chở
đến chiếc tàu "An Huy Châu Tế" đậu ngoài bến Hương Cảng.
3 - Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại
Việt Nam, trong " Chủ
tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh ", trang 218 viết:
Sau khi Nguyễn Ái Quốc buộc phải trở lại Hương Cảng, bị
giam trong ngục, có nhờ một cai ngục chuyền mảnh giấy thông báo tình hình đến
luật sư Frank Loseby. Loseby lập tức đến gặp Toàn quyền William Peel. Ông này đồng
ý lập tức trả lại tự do cho Nguyễn Ái Quốc và giao phạm nhân cho Loseby xử lý.
Lúc này Nguyễn Ái Quốc được bố trí ở tạm trong gian phòng bí mật một nhà thờ
Thiên chúa giáo. Phu nhân luật sư làm nhiệm vụ người đưa cơm hàng ngày. Theo lời
dặn của Loseby, thư ký của ông là Long tiên sinh đem đến cho Nguyễn Ái Quốc một
chiếc áo lông, một áo khoác ngoài rộng tay, một chiếc quần dài sang trọng và một
túi xách trong để tờ giấy đã viết sẵn mấy chữ. Vào lúc hoàng hôn, một người
trong trang phục giáo sư, thản nhiên bước ra khỏi ký túc xá, qua cửa lớn rồi
lên một chiếc kiệu. Bên cạnh kiệu là một người châu Âu mang kính trắng, tay cầm
cây bút. Người đàn ông châu Âu đó chính là luật sư Frank Loseby, còn vị giáo sư
chính là Nguyễn Ái Quốc. Luật sư mời Nguyễn Ái Quốc lên xe sau khi liếc mắt
nhìn trước nhìn sau không thấy có dấu hiệu mật thám, liền quay xe về phía nhà
mình. Vợ chồng Loseby cùng Phó Toàn quyền bàn bạc. Ông ta đồng ý gặp Toàn quyền
William Peel đề nghị giúp đỡ và được Toàn quyền chấp thuận.
4 - Paul Draken trong "Nhật ký Long Bảo La" viết
về Nguyễn Ái Quốc như sau:
Tôi và Nguyễn Ái Quốc gặp nhau trong căn hầm của Tổng bộ cảnh
sát. Ông ta là một người trung niên thân hình ốm yếu, mắc bệnh phổi, xem ra
tình hình sức khỏe không tốt. Nguyễn Ái Quốc biết tiếng Hoa và tiếng Pháp nên chúng tôi
có thể nói chuyện được với nhau: "Tôi là Paul Draken, đại diện Bộ Ngoại
giao Anh Quốc , được cử đến đây giúp đỡ tiên sinh xuất cảnh, xin hỏi, ngài định
đến nơi nào?". Nguyễn Ái Quốc uể oải trả lời trong khi vẫn không dứt cơn
ho: "Tôi muốn đến Liên Xô".
"Liên Xô? Vậy tốt nhất là nên qua lối Thượng Hải, như
vậy tôi sẽ có hân hạnh được tháp tùng ngài, đến Thượng Hải sẽ tùy ngài quyết định
đi đâu". Tuy nhiên luật sư Loseby tỏ ra lo lắng: "Tôi chỉ sợ mật thám
Pháp đã ngầm cử sát thủ đến Hương Cảng, vậy phải làm thế nào để đảm bảo cho
Nguyễn tiên sinh an toàn xuất cảnh?". Lúc này, cả hai chúng tôi đều ngẩng
lên nhìn Cảnh sát trưởng. Cảnh sát trưởng cáo già khôn khéo xua tay thoái thác:
"Tôi đã biết ý các ngài. Chúng tôi có thể bố trí tóm được đám sát thủ
Pháp, nhưng việc này phải tuyệt đối giữ bí mật, nếu để lộ ra, chính phủ Anh Quốc
sẽ khó ăn nói với người Pháp". Ngẫm nghĩ một lúc, ông ta nói tiếp:
"Chỉ cần các ngài đề xuất biện pháp xuất cảnh an toàn, tôi sẽ rất vui được
"thuận nước giong thuyền", có điều phải nói trước, vạn nhất, sự việc
bị vỡ lở, tôi sẽ không thừa nhận, đến lúc đó sẽ đắc tội với chính quyền địa
phương, mong nhị vị thông cảm".
Ra khỏi Tổng bộ cảnh sát, Loseby lớn tiếng chửi Cảnh sát
trưởng là một gã xảo trá. Bất chợt, tôi nảy ra một kế. Loseby vốn rất quen thân
với Toàn quyền Hương Cảng, nếu được ông ta đứng ra giải quyết vụ này, có thể
xem đấy như một là bùa hộ mệnh, tránh được thất bại do Cảnh sát trưởng có ý đồ
phản thùng. Tuy nhiên, cách làm hơi mạo hiểm là đóng giả làm khách của Toàn quyền
William Peel ra thăm bến cảng, sau đó chuyển lên chiếc thủy phi cơ "Trân
châu Trung Quốc" bay đi Thượng Hải. Nghĩ vậy, tôi bèn đem ý tưởng này bàn
với Loseby. Luật sư cảm thấy có thể thành công liền phân công nhau chuẩn bị
hành động.
5 - Phân tích về sai lầm và sự thật
Ghi chép về sự kiện Nguyễn Ái Quốc mất tích tại Hương Cảng
nhất dịnh phải làm rõ hai vấn đề quan trọng:
a - Thời gian rời Hương Cảng và nơi đã đi qua?
b - Sau khi rời Hương Cảng thì đến nơi nào?
Về cơ bản, các chuyên gia nghiên cứu sự kiện "mất
tích" của Nguyễn Ái Quốc
tại Hương cảng là khá thống nhất về thơi gian và nơi đi qua, được xem là khả
tín. Đặc biệt, Đại sứ Lý Gia Trung, trong bài viết của mình, đã trích dẫn
"Sự kiện Hương Cảng năm 1931" của Nguyễn Việt Hồng dẫn từ nguồn tư liệu
Hồ sơ Hoàng gia Anh Quốc mới được giải mật. Ghi chép về Nguyễn Ái Quốc, Paul
Draken, trong hồi ký của mình đã viết, ông từng tham gia giải cứu Nguyễn Ái Quốc.
Hai tác phẩm trên đều đưa ra những thông tin tương đối giống nhau về sự kiện
Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Hương Cảng, thậm chí còn nói rõ cả việc Toàn quyền
Hương Cảng William Peel cũng tham dự vào việc xây dựng kế hoạch chuẩn bị cho
Nguyễn Ái Quốc đào thoát. Khách quan mà nói, những tư liệu trên đều có độ tin cậy
cao. Tuy nhiên, đến đoạn tường thuật về quá trình rời khỏi Hương Cảng và sau
khi đã rời khỏi Hương Cảng thì độ tin cậy thấp, bởi phần này do Hồ Chí Minh tự
mình kể lại cùng những tư liệu của báo chí Cộng sản Việt Nam. Nói cách khác,
các ông trình nghiên cứu sự kiện Nguyễn Ái Quốc trốn khỏi Hương Cảng, phần đầu diễn
ra đúng với sự thực lịch sử, nhưng phần sau thì tất cả các bài viết đều cùng một
giọng, nói rằng: "Sau khi rời Hương Cảng, Nguyễn Ái Quốc đến Hạ Môn". Thực ra đây chính là cái bẫy của
trò đánh tráo "dời hoa tiếp cây" của Hồ Chí Minh.
Kiến giải về việc Hồ Chí Minh từ Hương Cảng đến Hạ Môn, thời
gian là không liên tục. Các tình tiết trong quá trình này là rất bất hợp lý.
Duy chỉ có Paul Draken ghi chép về Nguyễn Ái Quốc trong nhật ký của mình là
cung cấp thông tin ngược lại. Ông viết: "Sau khi xuống thuyền nhỏ rời cảng,
Nguyễn Ái Quốc được đưa lên chiếc thủy phi cơ "Trân Châu Trung Quốc"
bay đến Thượng Hải, hạ cánh xuống bến sông Hoàng Phố". Đây là thông
tin hợp lý, có thể tin cậy, bởi nó đã giải thích được nguyên nhân Nguyễn Ái Quốc
mất tích ở Hương Cảng.
1- Giải thích nguyên nhân Nguyễn Ái Quốc mất tích ở Hương Cảng.
Sau chuyến Nguyễn Ái Quốc đi Singapore bị buộc trở về Hương
Cảng, lập tức có tin truyền ra là "mất tích". Cái gọi là "mất
tích" chẳng qua là do nhà cầm quyền hương Cảng tung hỏa mù để giấu kín
thông tin. Sự thật thì, Toàn quyền Hương Cảng cũng tham dự vào vụ đưa Nguyễn Ái
Quốc rời Hương Cảng. Chẳng những thế, chính phủ Anh Quốc còn cử nhân viên tình
báo đến chỉ đạo công việc, chứng tỏ, nhà đương cục Hương Cảng đặc biệt quan tâm
đến vụ việc này. Việc loan truyền tin Nguyễn Ái Quốc mất tích xuất phát từ mấy
nguyên nhân sau:
a/ Tránh được sự tranh chấp giữa chính quyền Hương Cảng và
Cục cảnh sát di dân (tước đoạt mất tiền thưởng của Cảnh sát trưởng), nên đã bí
mật hành động.
b/ Chính quyền Hương Cảng muốn tránh cặp mắt nhòm ngó của
lãnh sự Pháp và mật thám Pháp nên phải rất thận trọng khi đưa Nguyễn Ái Quốc ra
khỏi Hương Cảng.
c/ Giữ được uy tín của chính phủ Hoàng gia Anh Quốc mà vẫn
không ảnh hưởng đến quan hệ bang giao hai nước, nên đã phái tình báo viên đến
xây dựng kế hoạch, bí mật đưa Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Hương Cảng.
2 - Sự thật về việc Nguyễn Ái Quốc trốn khỏi Hương Cảng.
Như trên đã nói, Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Hương Cảng thuận lợi
là bởi chính phủ Anh cử tình báo viên xây dựng kế hoạch cùng với sự tham gia bí
mật của Toàn quyền William Peel. Sự kiện này đã được Paul Draken viết trong hồi
ký của mình.
Nếu đem ghi chép về Nguyễn Ái Quốc trong hồi ký của Paul
Draken đối chiếu với William J. Duiker, Sophie Quinn-Judge, cùng cuốn sách
"Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh " của Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam, có dẫn dụng cả "Sự kiện Hương Cảng
năm 1931" của Nguyễn Việt Hồng, thì quá trình rời khỏi Hương Cảng của Nguyễn
Ái Quốc hầu như hoàn toàn nhất trí. Có thể xem đây chính là sự thật lịch sử. Từ
đó suy luận tiếp theo: "Cuối tháng giêng năm 1932, Nguyễn Ái Quốc rời khỏi
Hương Cảng cùng với bạn của Paul Draken là cô Anne Kennedy, người có chiếc thủy
phi cơ Trân Châu Trung Quốc', bay đến bến sông Hoàng Phố, sau đó một đồng chí
chèo con thuyền nhỏ đón Nguyễn Ái Quốc về Thượng Hải". (Anne Kennedy là chị
họ của tổng thống Hoa Kỳ thứ 35 John Kennedy, thân phụ là trùm dầu mỏ Hoa Kỳ,
giáo phụ hắc bang Thượng Hải Hoàng Kim Vinh là cha nuôi).
Nguyễn Ái Quốc trên đường từ hương Cảng đến Hạ Môn
Đầu năm 1933, liệu có phải Nguyễn Ái Quốc đã từ Hương Cảng
đến Hạ Môn? Theo đó, vào năm 1932 có đúng là, trên thực tế Nguyễn Ái Quốc đã chết
vì bệnh lao phổi? Còn Nguyễn Ái Quốc đến Hạ Môn đầu năm 1933 chính là Hồ Chí
Minh? Đây được xem là văn bản sớm nhất nói về sự kiện này. Sau đó, qua thời
gian, người ta đã nhiều lần thêm thắt, sửa chữa. Vì vậy, so với những ghi chép ở
nhật ký Paul Draken trong chiến dịch giải cứu Nguyễn Ái Quốc đến Thượng Hải thì
hoàn toàn khác nhau. Hai quan điểm này khác nhau về thời gian, địa diểm đến và
cả về lịch trình hành động. Vậy quan điểm nào là đúng? Chúng ta hãy tham khảo
những dánh giá của các chuyên gia, học giả sau đây:
1 - Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính trong tác phẩm "Hồ Chí
Minh ở Trung Quốc" đã viết:
"Đầu năm 1932, Hồ được phóng thích và buộc phải rời khỏi
Hương Cảng, căn cứ vào lời tự kể thì ông đã đến Thượng Hải. Để tránh tai mắt mật
thám, một luật sư ở Hương Cảng đã sắp xếp cho ông ta cải trang thành nhà buôn
Trung Quốc, lên tàu thủy ra khỏi Hương Cảng an toàn. Sau khi đến Hạ Môn, Hồ ở lại
đây nửa năm rồi mới đi Thượng Hải".
Nội dung tường thuật của Tưởng Vĩnh Kính dẫn từ cuôn sách
"Bác Hồ" của Hoài Thanh và Thanh Tịnh, NXB Ngoại văn Hà Nội, Việt
Nam, 1962).
2 - Trong tác phẩm "Truyện Hồ Chí Minh", trang
209, tác giả William J. Duiker viết (Giáo sư William J. Duiker dẫn từ nguồn: "Hồ sơ Quân đội
viễn chinh Pháp Quốc thuộc bộ phận hải ngoại", số hiệu 369 và "Hồ sơ
thông tin 1932"):
"Nguyễn Ái Quốc được vợ chồng F.Loseby bố trí đi theo
một nhân viên phiên dịch, chuẩn bị vào ngày 25 tháng giêng sẽ lên tàu đến Hạ
Môn. Sáng sớm hôm sau ngày đến Hạ Môn, Nguyễn Ái Quốc và người phiên dịch xuống
thuyền tìm đến quán trọ thanh niên Trung Quốc và ở đấy qua tiết lập xuân. Sau mấy
tuần, cảm thấy chẳng những mất an toàn mà lại còn không biết tình hình bên
ngoài ra sao, nên khi nhận được tiền bạn bè quyên góp gửi vào giúp đỡ từ luật
sư Loseby, ông cũng được đưa xuống tàu thủy đi Thượng Hải". Trong phần chú
giải ở trang 619, giáo sư William J. Duiker viết: "Nguyên nhân Nguyễn Ái
Quốc rời khỏi Hạ Môn rất không rõ ràng, có khả năng trốn chạy đến Singapore rồi
bị cảnh sát bắt giữ. Sự thật mối quan hệ giữa Đại sứ quán Pháp tại Hương Cảng
và cảnh sát Anh rất tốt. Cuối tháng giêng, nhà đương cục Pháp có thông báo cho
Singapore biết Nguyễn Ái Quốc đã trốn khỏi Hương Cảng. Như thế có thể cảnh sát
Pháp ở Thượng Hải nhận định,
nguyên nhân là Nguyễn Ái Quốc đang lẩn tránh ở trung tâm thành phố. Lại căn cứ
vào một tài liệu gốc Việt Nam là "Hồ Chí Minh biên niên tùng thư",
quyển 2, trang 42, và Trần Đạt Nhân "Vừa đi đường vừa kể chuyện",
trang 43, ta dễ dàng nhận thấy, Nguyễn Ái Quốc mới đi khỏi Hạ Môn vào tháng bảy,
chứng tỏ ông đã ở Hạ Môn 6 tháng".
Giải thích về sai lầm và sự thật.
Theo phân tích của giáo sư William J. Duiker, trang 209 cùng với
phần chú giải bổ sung trang 619, rõ ràng ở thời gian trên, phần trước và phần
sau mâu thuẫn với nhau. William J. Duiker cho rằng, ngày 25 tháng giêng Nguyễn
Ái Quốc rời Hương Cảng, ngày 26 đến Hạ Môn và ở Hạ Môn qua tiết lập xuân mới đi
Thượng Hải. Mặt khác, ông lại dẫn chứng những lời biện giải từ tác phẩm "Vừa
đi đường vừa kể chuyện" của Trần Đạt Nhân, thì đến tháng bẩy Nguyễn Ái Quốc
mới rời Hạ Môn, chứng tỏ ông ta lưu lại Hạ Môn 6 tháng. Giải thích sự việc này
hiển nhiên là để hợp lý hóa thời gian cho chuyến đi từ Hương Cảng đến Hạ Môn,
sau đó là từ Hạ Môn đến Thượng Hải. Đem
ba địa danh Hương Cảng, Hạ Môn, Thượng Hải gộp lại với nhau chính là nhằm mục
đích định vị thời gian vào cuối tháng giêng năm 1933, có điều đến tháng bảy mới
rời Hạ môn mà nói rằng lưu lại Hạ Môn 6 tháng là không hợp lý, rất khó khó có
thể vo tròn cho kín kẽ.
3 - Sophie Quinn - Judge trong "Những năm tháng mất
tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941", trang 169, 195 và 197 viết:
"William Loseby thuyết phục Toàn quyền Hương CảngWilliam Peel trợ giúp Nguyễn
Ái Quốc rời khỏi Hương Cảng.
Trong công văn, William Peel giải
thích, ông đã bố trí cho Hồ Chí Minh vào buổi chiều ngày 22 tháng giêng xuống một
chiếc thuyền nhỏ của tư nhân, không do chính quyền Hương Cảng quản lý, ra ngoài bến cảng,
sau đó lên tàu "An Huy Châu Tế". Hồ Chí Minh cải trang thành một phú thương Trung
Quốc cùng thư lý của William
Loseby là Long tiên sinh đến Sán Đầu(3)
Một người Thailand mật báo, vào tháng giêng năm 1935 đã
chính mắt nhìn thấy Hồ Chí Minh lẩn
trốn tại tỉnh Nakhon Phanom (Thailand), tuy vậy về sau tin này được kiếm chứng
là không chính xác‑(4).
Tháng chín năm 1933, một người Pháp cũng đã cáo giác, chính
mắt nhìn thấy Hồ Chí Minh cùng
một đám người Việt ở Nam Ninh. Nữ thám viên Maria nói, trong số 4 thanh niên
trú tại số nhà 78, phố Tùng Khải, có một người rất giống tấm ảnh chụp Hồ Chí
Minh. Một người họ Tuyến nhìn thấy trong nhà có 3 phụ nữ, 3 cô bé và một cậu
bé. Ông ta nói, Hồ Chí Minh dùng tên giả là Lý Tín Sơn.(5)
Vào tháng sáu năm 1931, Cục cảnh sát Anh Quốc bắt giữ một
người khả nghi được xem là Nguyễn Ái Quốc thu một hộ chiếu dán ảnh Hồ Chí Minh
.Hộ chiếu có thời hạn 6 tháng do Tổng lãnh sự Trung Quốc cấp, nội dung ghi "một công dân Trung
Quốc đến công tác Xiêm La".(6)
Chú thích:
(3): Nguồn dẫn từ PRO,CO 129/535/ trang 2,3 và 4, ngày 31
tháng giêng năm 1933, thư Toàn quyền William
Peel gửi Cunliffe- Lister.
(4): Nguồn dẫn từ: "Hồ sơ Quân đội viễn chinh Pháp Quốc
thuộc bộ phận hải ngoại", số hiệu 369, hồ sơ liên quan đến Hồ Chí Minh tại
Liêu Quốc.
(5): Nguồn dẫn từ "Hồ sơ Quân đội viễn chinh Pháp Quốc
thuộc bộ phận hải ngoại", số hiệu 383, ngày 5 tháng chín năm 1933, do
Barthouet ký.
(6): Nguồn dẫn từ: "Hồ sơ Quân đội viễn chinh Pháp Quốc
thuộc bộ phận hải ngoại"( Sự kiện bắt Hồ Chí Minh).
Giải thích về sai lầm và sự thật.
Sophie Quinn - Judge viết về sự kiện Nguyễn Ái Quốc đến Hạ
Môn: "Hồ Chí Minh cải trang thành một phú thương Trung Quốc cùng thư ký của Loseby là Long tiên sinh đến Sán Đầu.
Phần chủ giải nói Long tiên sinh là Long Đình Chương. Dennis J. Duncanson đi
theo Long Đình Chương nên được biết thêm một số chi tiết". Đoạn tự thuật
này không khỏi làm cho người ta nghi ngờ. Tạm thời chưa đi sâu tìm hiểu về giai
đoạn đến Sán Đầu, phải chăng việc đi Hạ Môn là do tác giả viết nhầm? Tự nhiên lại
nảy ra một cái tên Long Đình Chương. "Dennis J. Duncanson đi theo Long
Đình Chương nên được biết thêm một số chi tiết"(!?) là rất đáng ngờ.
Dennis J. Duncanson trong "Hồ Chí Minh ở Hương Cảng năm 1931- 1932"
đã ghi chép những sự kiện xảy ra trong hai năm 1931- 1932, vậy làm sao Nguyễn
Ái Quốc lại có thể xuất hiện ở Hạ Môn?
William J. Duiker trong phần nhận định về Nguyễn Ái Quốc đi
Hạ Môn có dẫn ra 3 tư liệu: "Một người Thailand mật báo, vào tháng giêng
năm 1935 đã chính mắt nhìn thấy Hồ Chí Minh lẩn trốn tại tỉnh Nakhon Phanom
(Thailand), tuy vậy về sau tin này được kiếm chứng là không chính xác.
Tháng chín năm 1933, một người Pháp cũng đã cáo giác, chính
mắt nhìn thấy Hồ Chí Minh cùng
một đám người Việt ở Nam Ninh. Nữ thám viên Maria nói, trong số 4 thanh niên
trú tại số nhà 78, phố Tùng Khải, có một người rất giống tấm ảnh chụp Hồ Chí
Minh. Một người họ Tuyến nhìn thấy trong nhà có 3 phụ nữ, 3 cô bé và một cậu
bé. Ông ta nói, Hồ Chí Minh dùng tên giả là Lý Tín Sơn.
Vào tháng sáu năm 1931, Cục cảnh sát Anh Quốc bắt giữ một
người khả nghi được xem là Nguyễn Ái Quốc thu một hộ chiếu dán ảnh Hồ Chí Minh.
Hộ chiếu có thời hạn 6 tháng do Tổng lãnh sự Trung Quốc cấp, nội dung ghi
"một công dân Trung Quốc đến công tác Xiêm La".
Ba tư liệu đã dẫn chỉ là sự nhầm lẫn
hay là đúng với đặc điểm nhân vật? Chúng tôi đã nghiên cứu kỹ và đi đến kết luận,
người ở trong cả 3 tư liệu trên đều không phải là Nguyễn Ái Quốc. Người này thật
ra đã bị Hồ Chí Minh thay thế theo kiểu "dời hoa tiếp cây" vốn là Hồ
Tập Chương, đến từ Đài Loan. Năm 1931, Hồ Tập Chương đổi tên là Hồ Chí Minh, vì
vậy mà hộ chiếu mang tên Hồ Chí Minh, và danh xưng này đến sau năm 1942 thì được
dùng thường xuyên. Do đó, tấm ảnh chụp năm 1931, hiển nhiên là của Hồ Tập
Chương, bởi vì năm 1931, ông là phái viên của Quốc
tế cộng sản, được cử đến Thailand, Singapore tham gia Đại hội Đảng Malaysia
(xem Thiên II "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người").
Kiến giải về việc nhận nhầm người: Lấy
ảnh Hồ Tập Chương (Hồ Chí Minh ) đem so sánh với Nguyễn Ái Quốc, tự nhiên sẽ nhận
ra sự nhầm lẫn, đến mức mật thám Pháp vào tháng chín năm 1933 đã từng nhìn thấy
Hồ Chí Minh cùng 4 thanh niên tại Nam Ninh, trong đó có một người rất giống với
tấm ảnh chụp Hồ Chí Minh. Căn cứ vào sự kiểm tra các hạng mục tư liệu, 4 thanh
niên Việt Nam ấy là Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Thế (Chí) Kiên và Hoàng
Văn Hoan. Hồ Chí Minh đổi tên thành Lý Tín Sơn chính thực là Hồ Tập Chương. Vào
mùa hè năm 1932, nhóm người này đang tạm trú ở Long Châu, Quảng Tây để chuẩn bị
thành lập Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động hải ngoại
sau này.
Ý kiến tận mắt nhìn thấy Hồ Chí Minh ở
Nam Ninh vào tháng chín năm 1933, William
J. Duiker dẫn từ nguồn "Ghi chép về các hồ sơ" theo trình tự thời
gian nhưng chưa phát hiện ra thời gian cư trú tại Nam Ninh của Hồ Chí Minh. Cho
nên, cần phải xác định được thời gian trước tháng giêng năm 1933, ông ta ở đâu,
làm gì? mới có câu trả lời chính xác.
4- Trong tác phẩm "Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí
Minh"- Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam,
trang 220 đến 222, viết:
"Cuối tháng giêng năm 1933, một
chiếc tàu biển cập bến Hương Cảng,
chuẩn bị đi Hạ Môn, Thượng Hải và Nhật Bản. Luật sư Loseby đã mua sẵn 2 tấm vé
đứng đợi khách ở đầu tàu. Đó là một ngày cuối tháng chạp âm lịch, con tàu nhổ
neo rơi Hương Cảng tiếp tục hanh trình. Cùng lúc ấy, Toàn quyền Hương Cảng cử một
chiếc ca nô cắm cờ chạy đến bến Tây Hoàng. Thuyền trưởng được lệnh đón một vị
khách ở đây rồi chạy thẳng ra cảng, đuổi theo con tàu vừa khởi hành. Chẳng bao
lâu ca nô cập bến Hạ Môn. Cửa khẩu lúc này rất vắng, vì nơi đây đang chuẩn bị
đón tết Nguyên đán, chốc chốc lại rộn lên tiếng pháo. Long tiên sinh chính là
người của luật sư Loseby có nhiệm vụ hộ tống Nguyễn Ái Quốc. Hai người thuê xe
tìm đến nhà trọ. Vào phòng rồi, Nguyễn Ái Quốc nhìn ra ngoài cửa nhớ lại những
ngày qua, bất giác hình dung những ngày sắp tới của kẻ tha hương. Long tiên
sinh nói: "Hôm này là ngày ba mươi tết, rất tiếc giờ đã muộn, không thể kiếm
được hoa đào hay hoa mai".
5 - Sự nhầm lẫn trong sự kiện Nguyễn
Ái Quốc đi Hạ Môn.
Trong đoạn ghi chép về sự kiện Nguyễn
Ái Quốc đến Hạ Môn có mấy điểm sai lầm:
a/ Đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc mất
tích ở Hương Cảng, đến Hạ Môn vào đầu năm 1933 là bất hợp lý. Hành trình từ
Hương Cảng đến Hạ Môn chỉ vài ngày, nhưng ở đây lại mất đúng một năm, rõ ràng
là trái logic.
b/ Ý kiến cho rằng Nguyễn Ái Quốc ở Hạ
Môn là quan điểm thống nhất theo cách biện giải của báo chí và các công trình
nghiên cứu về Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Rõ ràng cách nói "dưỡng bệnh nửa
năm" ở Hạ Môn, đối với họ, không ngoài mục đích giải thích cho việc Nguyễn
Ái Quốc đã chết đầu năm 1932, đến mùa xuân năm 1933, Hồ Chí Minh xuất hiện ở Hạ
Môn, ngụy tạo nửa năm dưỡng bệnh, chính là để tiếp nối với cái "tin đã chết".
Hành động trên chính là tạo tiền đề cho việc viết tiểu sử Nguyễn Ái Quốc, nghĩa
là, vào thời kỳ đầu năm 1933, tiếp tục đến Hạ Môn, sau đó đi Thượng Hải, nên mới
bịa ra chi tiết, trước khi đến Thượng Hải, Nguyễn Ái Quốc ở lại Hạ Môn một số
ngày".
c/ Biết được sự kiện Nguyễn Ái Quốc trốn
khỏi Hương Cảng là do Long tiên sinh, người cùng đi với ông ta. Long tiên sinh
có thể là Paul Draken, tuy nhiên, theo "Nhật
ký Paul Draken", thì về căn bản, Paul Draken (Long Bảo La) không cùng đi với
Nguyễn Ái Quốc đến Hạ Môn. Rõ
ràng, ý kiến cho rằng Nguyễn Ái Quốc đến Hạ Môn chính là Hồ Chí Minh đã tìm hết
cách mượn cái tên Paul Draken để
liên kết, thuyết phục mọi người Nguyễn Ái Quốc đích thực đã trốn khỏiHương Cảng
đến Hạ Môn.
(Tác giả nhận định: Trong năm
1932, chỉ biết có một người là Long tiên sinh mà không thấy có người tên là Paul Draken (Bảo La Đức Nhuế Khẳng,
Long Bảo La), vì thế, nói rằng Nguyễn Ái Quốc đến Hạ Môn hoàn toàn do Hồ Chí Minh hư cấu).
6 - Long tiên sinh là Long Đình Chương hay Long Bảo La
(Paul Draken)?
Cả William
J. Duiker và cựu Đại sứ Lý Gia Trung đều viết là "Long tiên sinh cùng Nguyễn
Ái Quốc đến Hạ Môn", vậy
Long tiên sinh và Long Bảo La (Paul Draken) trong thời gian này có mối quan hệ
như thế nào? Phải chăng họ chỉ là một người? Sự kiện năm 1932 Nguyễn Ái Quốc rời
khỏi Hương Cảng là vô cùng bí mật,
vì thế thân phận đích thực của Long Bảo la (Paul Draken) không thể nào được
công khai.
Hiện nay, hồ sơ "sự kiện Hương Cảng"
của Nguyễn Ái Quốc đã được giải mật. "Nhật ký Long Bảo La" (Paul
Draken - Nguyễn Ái Quốc) đã được xuất bản. Đối chiếu toàn bộ đầu cuối "sự
kiện Hương Cảng", sẽ rất khó
giải thích rõ ràng việc Long Bảo La (Paul Draken) là người trực tiếp đưa Nguyễn
Ái Quốc rời khỏi Hương Cảng. Long
tiên sinh tức Long Bảo La, tức tình báo viên Anh Quốc Paul Draken.
Rất đáng tiếc, trước khi hoàn thành
công trình lớn của mình, William J. Duiker chưa biết đến "Nhật ký Long Bảo
La - Nguyễn Ái Quốc", chưa sử dụng sự kiện Long Bảo La tham gia giải cứu
Nguyễn Ái Quốc để chứng minh sự thật là, Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng bằng thủy phi cơ đến Thượng
Hải, mặc cho Hồ Chí Minh tự bịa ra câu chuyện hoang đường "từ Hương Cảng đến
Hạ Môn".
Từ khi Loseby nhận làm luật sư bào chữa
vụ Nguyễn Ái Quốc, Tòa Hương Cảng đã trải qua chín phiên xử. Viện Khu mật Hoàng gia
London đã thẩm định đơn kháng cáo của đương sự và đình chỉ vụ án,, chưa từng
nghe thấy văn phòng luật sư có một thư ký họ Long, cũng không biết tên của người
họ Long là gì. Vậy mà, đột nhiên vào thời điểm Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng đi
đi Hạ Môn lại xuất hiện một Long tiên sinh và Long Bảo la. Cách nói tình báo
viên "Long Bảo la" và "Long tiên sinh" hình như khớp nhau để
tạo ra sự thật là cùng tham gia giải cứu Nguyễn Ái Quốc đào thoát Hương Cảng. Sự
kiện Long tiên sinh cùng Nguyễn Ái Quốc đến Hạ Môn và sự kiện Long Bảo La cùng
Nguyễn Ái Quốc đến Thượng Hải, người sắm vai chính của hai trường hợp này, một
là Nguyễn Ái Quốc và Long tiên sinh, một là Nguyễn Ái Quốc và Long Bảo La .
Tính chất của hai sự kiện là khớp nhau, chỉ có tên người là không giống nhau mà
thôi. Việc này giải thích rất dễ, Long tiên sinh chính là tình báo viên Anh Quốc
Paul Draken (Bảo La Đức Nhuế Khẳng), cũng chính là Long Bảo La. Từ đó suy ra,
Long Bảo La cùng đi với Nguyễn Ái Quốc bằng
chiếc thủy phi cơ bay đến Thượng Hải hạ cánh ở bến sông Hoàng Phố là hoàn toàn
đúng với sự thật lịch sử, còn nói rằng, Long tiên sinh cùng Nguyễn Ái Quốc đến Hạ Môn là hoàn toàn bịa đặt.
Sự kiện Hồ Chí Minh từ Hạ Môn đến
Thượng Hải
Đại bộ phận chuyên gia, học giả đều
trình bày và phân tích: "Đầu năm 1933, Hồ Chí Minh từ Hạ Môn đến Thượng Hải",
chỉ có hồi ký của Long Bảo la là viết: "Đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đi
chiếc thủy phi cơ nhãn hiệu "Trân Châu Trung Quốc" từ Hương Cảng bay
đến bến sông Hoàng Phố rồi về Thượng Hải trên con thuyền nhỏ". Hai đoạn
văn này, thời gian, nhân vật và lịch trình đều khác nhau. Một phía là Nguyễn Ái
Quốc đầu năm 1932 trực tiếp từ Hương Cảng đến Thượng Hải, phía kia là Hồ Chí
Minh, đầu năm 1933, từ Hạ Môn đến Thượng Hải. Trong khoảng thời gian này, vấn đề
mấu chốt là, thực chất có phải Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh phổi vào mùa thu
năm 1932? Và, người từ Hạ Môn đến Thượng Hải vào đầu năm 1933 là Nguyễn Ái Quốc
hay Hồ Tập Chương? Rất mong quý
vị cao minh tường giải.
1 - Trong tác phẩm "Hồ Chí
Minh ở Trung Quốc", trang 75, 76, giáo sư Tưởng Vĩnh Kính viết:
Đầu năm 1933, Hồ Chí Minh từ Hạ Môn đến
Hương Cảng. Lúc này tình hình ở Thượng Hải so với thời giam năm 1930 (khi mà
ông ta ở đó) hoàn toàn không giống nhau. Tổ chức bí mật của Đảng Cộng sản Trung
Quốc ở đây được thành lập từ mùa hè năm 1931 đã bị đánh phá tan tác, do đó, vào
lúc Hồ đến Thượng Hải thì không làm cách nào liên lạc được với họ. Vừa lúc Ủy
viên Trung ương đảng Cộng sản Pháp là Paul Vaillant Couturier đến Thượng Hải, Hồ
lập tức viết thư nhờ Tống Khánh Linh chuyển giúp. Vì phải lẩn tránh các nhân
viên trị an nên Hồ Chí Minh đóng vai một công tử hào hoa, thuê hẳn chiếc xe hơi
sang trọng, tận tay gửi vào hòm thư gia đình Tôn phu nhân. Mấy ngày sau, Hồ Chí
Minh gặp Paul Vaillant Couturier, hai người đi theo một liên lạc viên của Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Sau đó, người này bố trí cho Hồ Chí Minh xuống một chiếc
tàu thủy Nga Xô, rời Thượng Hải đi VladiVostok để đến Mạc Tư Khoa.
Nội dung tác phẩm "Hồ Chí Minh ở
Trung Quốc" của giáo sư Tưởng Vĩnh Kính đều dẫn nguồn từ cuốn sách
"Bác Hồ" trang 67 của Hoài Thanh và Thanh Tịnh do NXB Ngoại văn Hà Nội
ấn hành năm 1962.
2 - Giáo sư Hoàng Tranh trong tác phẩm "Hồ Chí Minh và
Trung Quốc", trang 51, 52 đã viết:
Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc cải trang thành một thương
nhân xuống tàu thủy rời Hạ Môn đi Thượng Hải. Lần đến Thượng Hải này, so với 2
năm trước đây, tình hình rất khác nhau, mà trước hết là, không có cách nào liên
lạc được với các tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Một ngày kia, Hồ Chí
Minh đọc được bản tin trên báo nói rằng, Đoàn đại biểu chống chiến tranh của
phe Đồng Minh sẽ đến Thượng Hải, bèn viết một bức thư gửi người bạn Pháp là
Paul Vaillant Couturier nhờ Tống Khánh Linh chuyển giúp. Hồ Chí Minh sắm vai một
công tử hào hoa, thuê chiếc xe hơi sang trọng, đến số nhà 29, đường Molière, là nơi cư ngụ của Tống Khánh
Linh, tự tay bỏ thư vào hòm thư gia đình. Mấy ngày sau, Hồ Chí Minh và Paul Vaillant Couturier liên lạc được
với nhau. Nhờ Paul Vaillant Couturier, Hồ Chí Minh liên lạc được với tổ chức của
Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải. Họ bố trí cho ông ta xuống một chiếc
tàu thủy Liên Xô đi Vladivostok, sau đó chuyển sang xe lửa về Mạc Tư Khoa.
Nội dung bhi chép của giáo sư Hoàng Tranh đều dẫn từ bài
báo "Tống Khánh Linh giúp đỡ đồng chí Hồ Chí Minh liên lạc với tổ chức Đảng"
("Nhân dân nhật báo", số ra ngày 6 tháng 9 năm 1981).
3 - William
J. Duiker trong "Truyện Hồ Chí Minh", trang 210, 211viết:
Sau khi Nguyễn Ái Quốc được Loseby gửi
tiền do các bạn Trung Quốc bên ngoài quyên góp, cuối cùng xuống một chiếc tàu
thủy rời Hạ Môn đến Thượng Hải.
Vì để tránh con mắt các nhân viên bảo an khu tô giới Pháp, Nguyễn Ái Quốc cải
trang thành một phú thương, ở trong một khách sạn sang trọng. Một người bạn nhắc
Nguyễn Ái Quốc phải đề cao cảnh giác, vì Cục Bảo an cũng có thể đặt lại vấn đề
về cái chết năm 1931 mà báo chí đã loan tin, và cho rằng, hiện tại ông ta đang ở
Thượng Hải. Trong khi ấy, cảnh sát Pháp khu tô giới ráo riết truy tìm nơi lẩn
trốn của Nguyễn Ái Quốc , đồng thời treo giải thưởng cho người cung cấp thông
tin. Từ năm 1927, chính quyền Tưởng Giới Thạch tiến hành đại khủng bố Đảng Cộng
sản Trung Quốc ở Thượng Hải. Đến năm 1931, Pháp và Anh cũng mở chiến dịch quy
mô truy bắt các phần tử cộng sản. Lúc này Đảng Cộng sản Trung Quốc đã rút vào
hoạt động bí mật, vì thế, Nguyễn Ái Quốc muốn tìm sự giúp đỡ về tài chính từ
các đồng chí ở Thượng Hải là không dễ dàng.
Thật may , Nguyễn Ái Quốc tìm được người
bạn Ủy viên Trung ương đảng cộng sản Pháp Paul Vaillant Couturier vừa đến Thượng
Hải tham gia "Hội nghị Thế giới đồng minh bảo vệ nhân quyền" do do quả
phụ của Tôn Trung Sơn là Tống Khánh Linh hiệu triệu, liền quyết định lợi dụng dịp
này, gửi một bức thư cho Tôn phu nhân. Quả
nhiên, sau đó không lâu, Nguyễn Ái Quốc gặp được Paul Vaillant Couturier thông
qua một liên lạc viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nguyễn Ái Quốc cải trang
thành một phú thương, Paul Vaillant Couturier bố trí cho ông ta xuống một con
tàu Nga Xô đi Vladivostok.(7) Vào
một ngày xuân năm 1934, Nguyễn Ái Quốc từ Vladivostok đáp xe lửa băng qua vùng
lãnh nguyên Siberi giá lạnh đến Mạc Tư Khoa.(8)
Tư liệu William J. Duiker sử dụng
trong phần này được dẫn từ:
(7): Xem Trần Đạt Nhân " Vừa đi
đường vừa kể chuyện", trang 51, và của Nguyễn Lương Bằng trong "Chủ tịch
Hồ Chí Minh của chúng ta".
(8): Dẫn từ "Hồ Chí Minh kỷ niệm
văn vật" trong "Cùng Hồ thúc thúc ở Liên xô" của Nguyễn Canh
Thác.
4 -Sophie Quinn - Judge, trong
"Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941", trang 197, viết:
Nếu quả thật Hồ Chí Minh ẩn náu ở
Nam Ninh, ta có thể suy đoán ông ta ra đi vào tháng chín, bởi vì, tháng chín
năm 1933, một Ủy viên Trung ương đảng Cộng sản Pháp làPaul Vaillant Couturie đến
Thượng Hải dự "Đại hội châu Á phản đối chiến tranh". Hồ Chí Minh nói
rằng, khi ấy đúng là Paul Vaillant Couturier đã giúp ông ta bắt được liên lạc với
tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải rồi sắp xếp cho mình đi Mạc Tư
Khoa.
Nội dung Sophie Quinn - Judge tường
thuật ở trên được dẫn từ "Một ngày của Bác Hồ" của Nguyễn Lương Bằng,
NXB Ngoại văn, 1961, trang 81.
9 - Lý Gia
Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam, trong "Chủ tịch
nước Việt Nam Hồ Chí Minh ", trang 222 đến 224, viết:
Hồ Chủ Tịch ở lại Hạ Môn không lâu, sau đó xuống thuyền
đi Thượng Hải. Một hôm, Nguyễn Ái Quốc được biết, có một đoàn đại biểu châu Âu
đến thăm vùng Viễn Đông sẽ đến Thượng Hải truyên truyền chống chiến tranh đế quốc.
Trong đoàn có một người bạn Pháp là đồng chí Paul Vaillant Couturier. Thế là,
Nguyễn Ái Quốc thuê một chiếc xe hơi sang trọng đến biệt thự của Tống Khánh
Linh ở đường Molière nhờ gia nhân chuyển đến Paul Vaillant Couturier, đề nghị
giúp đỡ để sang Liên Xô. Một ngày đầu năm 1934, một chiêc ca nô chạy đến gần
con tàu Liên Xô đang đậu ở
bến cảng Thượng Hải. Hồ Chí Minh lên tàu trở lại quê hương Lenin, cảm động nói:
"Lưu lạc quê người ba năm chẵn, trở lại gia đình dại công nông" (Lưu
lạc tha hương tam niên chỉnh, hồi đáo công nông đại gia đình).
6 - Bảo La Đức Nhuế Khằng "Nhật
ký Long Bảo La- Ghi chép về Nguyễn Ái Quốc ".
Tôi lên tàu, vào buồng lái tìm thuyền
trưởng, chỉ vào hải đồ, ra lệnh cho ông ta cho tàu đến một tọa độ ngoài biển. Từ
xa đã nhìn thấy chiếc "Trân Châu Hương Cảng", tôi liếc nhìn đồng hồ,
vừa đúng giờ, liền dùng ánh đèn làm hiệu. Anne Kennedy cũng dùng đèn hiệu đáp lại.
Tôi cùng Nguyễn Ái Quốc chia tay với vợ chồng luật sư Loseby và Phó Toàn quyền
phu nhân. Trước khi chia tay, phu nhân Loseby còn đặt trên bàn một gói điểm tâm
cho tôi và Anne dùng trên đường đi. Rời tàu, tôi và Nguyễn Ái Quốc trèo lên chiếc
thủy phi cơ. Anne lập tức khở động máy cho phi cơ cất cánh vế hướng Thượng Hải.
Không lâu sau máy bay đậu xuống bến sông Hoàng Phố, tai đây đã có một đồng chí
của Nguyễn Ái Quốc chèo thuyền đón ông ta vào thành phố.
7 - Giải thích về sai lầm và sự thật.
a/ Thời gian từ Hạ Môn đến Thượng Hải, phần
lớn các nhà nghiên cứu đều ghi chép là đầu năm 1933, nhưng William J. Duiker
thì cho rằng, mãi đến sau tháng chín năm 1933 Nguyễn Ái Quốc mới đến Thượng Hải
căn cứ vào hai điểm sau:
- Tháng chín năm 1933, Hồ Chí Minh ẩn
náu ở Nam Ninh.
- Tháng chín năm 1933, Paul Vaillant
Couturier đến Thượng Hải tham gia "Đại hội châu Á phản dối chiến
tranh".
Ý kiến của William J. Duiker dẫn từ
nguồn "Hồ sơ Quân đội viễn
chinh Pháp Quốc thuộc bộ phận hải ngoại", ngày 5 tháng chín năm 1933, do Ba
Tùng Uy(1) ký, số hiệu
394.William J. Duiker đã lấy thời gian ký vào hồ sơ làm cơ sở suy luận, vậy thì
chính xác phải là trước tháng giêng năm 1933. Còn giả thiết tháng chín năm
1933, Nguyễn Ái Quốc được Paul Vaillant Couturier giúp đỡ để rời Thượng Hải chỉ
là câu chuyện hư cấu.
Từ các nguồn tư liệu trên, có thể phán
đoán, Hồ Chí Minh đầu năm 1933 từ Hạ Môn đến Thượng Hải không phải nhầm lẫn, có
điều ông Hồ này tuyệt đối không phải là Nguyễn Ái Quốc .
b/ Cứ coi Hồ Chí Minh tức là Nguyễn Ái
Quốc mà nói, hành trình của Nguyễn Ái Quốc từ Hương Cảng qua Hạ Môn để đến Thượng
Hải rồi đi Mạc Tư Khoa sẽ phát sinh mâu thuẫn về thời gian.
- Vì cớ gì Nguyễn Ái Quốc không trực
tiếp từ Hương Cảng đi Thượng Hải, liệu có phải ông ta đang mắc bệnh trầm trọng?
Vì sao lại phải chịu đựng trăm cay ngàn đắng cả một năm rồi mới đến Hạ Môn? Vì
sao lại phải ngụy tạo ra nửa năm dưỡng bệnh ở Hạ Môn làm cho sự việc trở nên rắc
rối?
- Nguyễn Ái Quốc chẳng đã tuyên bố tại
Thượng Hải là vô cùng túng bấn, vì sao vẫn lưu lại một năm? Có phải đơn giản chỉ
là đợi Paul Vaillant Couturier đến giải cứu? Một năm ở Thượng Hải Nguyễn Ái Quốc
làm gì? Vì sao kéo dài đến mãi đầu năm 1934 mới rời Thượng Hải? Những lý do được
ngụy tạo để giải thích là rất khiên cưỡng, khó thuyết phục người đọc. Chỉ có một
khả năng giải thích là, cuộc hội kiến cới Paul Vaillant Couturier chính là để
liên kết giữa Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc, nhằm hóa giải nghi án về cái chết
của ông ta , chứng minh, người năm 1933 có mặt tại Thượng Hải chính là Nguyễn
Ái Quốc. Cho nên, đã trót ngụy tạo ra chuyện hoang đường, đến lúc có nguy cơ bị
bóc trần, bất đắc dĩ người ta lại phải hư cấu ra một chuyện hoang đường khác,
tuy nhiên, cuối cùng sự thật vẫn bị bóc trần.
- Nếu nói Hồ Chí Minh là Hồ Tập
Chương, thì nguyên nhân Hồ Tập Chương trở lại Thượng Hải rất không đơn giản là
chỉ có một mục đích. Mùa hè năm 1931, nhân vụ việc Noulens, sau khi rời khỏi
Hương Cảng, qua gần hai năm sống lưu vong cùng khổ, sau này , thấy tình hình
yên ắng, Hồ Tập Chương mới trở lại làm việc trong " Công hội Thái Bình
Dương Thượng Hải".
Trở lại sự kiện sau khi đến Thượng Hải
hai năm, Hồ Tập Chương phát hiện ra, tổ chức Quốc tế cộng sản nơi này đã hoàn
toàn tan rã. Các cơ quan của Trung Cộng đều rút vào hoạt động bí mật. Ông ta
trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan, không thể trở về cơ quan công tác cũ mà
cũng chẳng bắt liên lạc được cới Đảng Cộng sản Trung Quốc nên đã nảy ra ý định
đi Mạc Tư Khoa. Chính vì thế Hồ Tập Chương phải nhờ đến Tống Khánh Linh. Để giữ
bí mật, Hồ thuê một chiếc xe hơi sang trọng đến tư dinh Tống phu nhân, số nhà
29, đường Molière, gửi một phong thư vào hòm thư gia đình, hy vọng Tống Khánh
Linh giúp đỡ sẽ liên lạc được với Đảng Cộng sản Trung Quốc để đi Mạc Tư Khoa.
Còn như việc nhờ làm trung gian để gặp Paul Vaillant Couturier chỉ là sự bịa đặt.
c - Sự kiện Paul Vaillant Couturier có
liên quan đến thời gian Hồ Chí Minh rời khỏi Hương Cảng, vì thế, sẽ là một bước
tiến làm sáng tỏ vụ việc. Để hoàn thành vở kịch "dời hoa tiếp cây",
người ta đã ngụy tạo ra sự kiện Hồ Chí Minh gặp mặt Paul Vaillant Couturier nhằm
đạt hai mục đích:
- Chứng thực người ở Thượng Hải vào
năm 1933 là Nguyễn Ái Quốc.
- Xóa bỏ thông tin chết do bệnh lao phổi
vào mùa thu năm 1932.
Chỉ có điều cố tình kéo dài thời gian
đến khi trở lại Mạc Tư Khoa là hoàn toàn mâu thuẫn. Bởi lẽ, vào mùa xuân năm
1933, Hồ Tập Chương đã đi Mạc Tư Khoa, làm sao có thể hội kiến với người bạn
Pháp Paul Vaillant Couturier? Rõ ràng việc ngụy tạo đến tháng chín năm 1933,
Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) mới rời khỏi Thượng Hải là không phù hợp về thời
gian. Paul Vaillant Couturier đến Thượng Hải tham gia "Hội nghị thế giới
yêu hòa bình, phản đối chiến tranh" vào ngày 30 tháng chín năm 1933 (xem:
Tống Khánh Linh truyện, quyển thượng, Istaael Epstein viết, Thẩm Tô Nho dịch,
trang 373).
Về phía Hồ Tập Chương mà nói,
lúc ấy không hề quen biết Paul Vaillant Couturier, vì thế cũng không thể có cuộc
gặp mặt giữa hai người. Sự việc ông ta thuê xe đến nhà Tống Khánh Linh với việc
Paul Vaillant Couturier đến Thượng Hải dự hội nghị chẳng liên quan gì với nhau.
Mùa hè năm 1931, Hồ Tập Chương vì bị liên quan đến vụ Noulens nên phải trốn khỏi
Hương Cảng đến Quảng Châu, từng bị Quốc dân đảng truy đuổi đã lẩn trốn ở Quế
lâm, Điền Châu vùng biên giới Thailand, đến mùa xuân năm 1933 mới từ Thailand
qua Hạ Môn về Hương Cảng (xem Thiên III "Sự kiện Hồ Tập Chương bị truy đuổi
ở Quảng Châu"). Ở lại Hạ Môn một thời gian, biết được Tống Khánh Linh đang
vận động thành lập "Hội bảo vệ nhân quyền Trung Quốc" để nỗ lực giải
cứu vợ chồng Noulens và các tù nhân chính trị Trung Quốc, Hồ bèn đến Thượng Hải.
Nhưng tại đây, ông ta không làm cách nào trở về được nơi công tác cũ, cho nên
phải cần đến sự giúp đỡ của "Hội bảo vệ nhân quyền..." thông qua Tống
Khánh Linh để về Cục Phương Đông Quốc tế cộng sản ở Mạc Tư Khoa.
Vì thế, sự thật được phơi bày. "Hồ
Chí Minh về căn bản không yêu cầu sự trợ giúp của Paul Vaillant
Couturier". Vào đầu năm 1933, ông ta rời khỏi Thượng Hải đến Mạc Tư Khoa.
Dự đoán thời gian Hồ Tập Chương đến Mạc Tư Khoa là vào mùa he năm 1933.
Bộ phim "Nguyễn Ái Quốc thoát
hiểm ở Hương Cảng.
Lần
đầu tiên hai nước Trung-Việt hợp tác sản xuất bộ phim về Nguyễn Ái Quốc. Tên
phía Trung Quốc đặt là "Thoát hiểm ở Hương Cảng" còn Việt Nam gọi là
"Nguyễn Ái Quốc ở Hong kong" do Hội Điện ảnh Việt Nam và Công ty liên
hợp Điện ảnh Châu Giang hợp tác sản xuất, phát hành. Phim được khởi quay vào cuối
năm 2002, đến ngày 1 tháng chín năm 2003 chiếu duyệt lần đầu tại Trung tâm Chiếu
phim quốc gia Việt Nam. Giá thành phim là 15 tỷ đồng Việt Nam (ước khoảng 8 triệu
NDT), phát hành bằng tiếng
Việt, tiếng Trung và tiếng Anh.
Nội dung phim miêu tả đầu những
năm ba mươi của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc bị bắt giữ, bị thẩm vấn rồi được giải
cứu khỏi nhà giam. Phim có nhiều đoạn cao trào, gay cấn, sinh động. "Nguyễn
Ái Quốc ở Hong kong" khắc họa Nguyễn Ái Quốc vào những năm 1931 - 1932 như
một nhân vật thần bí, có những đoạn quá cường điệu, nhất là cảnh các đặc công ẩn
trong lòng đất, tiến hành giải
cứu vô cùng thông minh, quả cảm. Với mục đích tuyên truyền, họ đã đẩy câu chuyện
đến mức bất chấp sự thật lịch sử. Các nam nữ diễn viên và những pha tình cảm
luyến ái chẳng qua là để làm trò câu khách. Rốt cuộc, những chuyện tình ái mùi
mẫn do các nhà biên kịch, đạo diễn hư cấu không phải là sự thực trong tình yêu
và hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc. Ngược lại, sự kiện Nguyễn Ái Quốc bị trọng bệnh
tử vong đã được báo chí dưa tin, lại bị các nhà làm phim ỉm đi. Rõ ràng bộ phim
Việt- Trung hợp tác sản xuất này chỉ nhằm hướng tới mục đích chính trị, hoàn
toàn không phải đi tìm sự thật lịch sử.
Từ bộ phim " Nguyễn Ái Quốc
ở Hong kong", nhìn lại hiện thực lịch sử qua vụ án Nguyễn Ái Quốc, tôi đề
xuất một bản kết luận giản lược như sau:
(1) - Vào lúc 2 giờ sáng ngày 6 tháng
sáu năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Hương Cảng bắt.
(2) - Từ ngày 1 tháng tám năm 1931 đến ngày 19 tháng chín
năm 1931, trải qua chín phiên xử, tòa án Hương Cảng phán quyết giải Nguyễn Ái
Quốc về Việt Nam.
(3) - Ngày 12 tháng 12 năm 1931, luật
sư Loseby gửi đơn kháng cáo lên Viện Khu mật Hoàng gia London, Anh Quốc.
(4) - Cuối năm 1931, luật sư hai bên
hoàn thành một thỏa hiệp, Khu mật viện Hoàng gia London, Anh Quốc quyết định trả
tự do cho Nguyễn Ái Quốc.
(5) - Ngày 28 tháng 12 mười hai năm
1931, Nguyễn Ái Quốc được chính phủ Hương Cảng phóng thích và hứa để tự do xuất
cảnh.
(6) - Ngày 6 tháng giêng năm 1932,
Nguyễn Ái Quốc xuống tàu di Singapore nhưng không được nhập cảnh, phải trở lại
Hương Cảng.
(7) - Ngày 19 tháng giêng năm 1932,
Nguyễn Ái Quốc buộc phải quay lại Hương Cảng, bị cáo buộc vi phạm điều lệ nhập
cảnh, lại bị câu lưu.
(8) - Ngày 22 tháng giêng năm 1932,
nhà cầm quyền bất chấp điều lệ nhập cảnh, hạn trong 3 ngày, Nguyễn Ái Quốc phải
rời khỏi Hương Cảng.
(9) - Ngày 25 tháng giêng năm 1932,
Nguyễn Ái Quốc lên chiếc thủy phi cơ đi Thượng Hải, sau đó mất dấu vết.
(10) - Mùa thu năm 1932, báo chí Cộng
sản lần lượt đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết vì bệnh lao phổi.
(11) - Đầu năm 1933, Hồ Tập Chương từ
Thailand về Hạ Môn rồi đi Thượng Hải.
(12) - Mùa xuân năm 1933, Hồ Tập
Chương từ Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa.
(13) - Đầu năm 1934, Vera Vasilieva,
thuộc Quốc tế cộng sản phụ trách các vấn đề Việt Nam, yêu cầu Hồ Tập Chương
thay thế thân phận Nguyễn Ái Quốc tiếp tục thực hiện cuộc vận động cách mạng Việt
Nam, buộc Hồ Tập Chương phải thực hiện chương trình giáo dục cải tạo 5 năm tại
Mạc Tư Khoa. Như vậy, cùng với lãnh đạo chóp bu Trung Cộng và Việt Cộng, Mạc Tư
Khoa đã phối hợp, từng bước đạo diễn vở kịch "Nguyễn Ái Quốc chết mà sống
lại" thực hiện âm mưu xảo trá "tráo rồng đổi phượng", "dời
hoa tiếp cây".
Phụ lục
"Nhật ký Long Bảo La"
(trích đoạn).
"Tôi rất biết ngài có đủ kinh
nghiệm". Tiên sinh M. trong bức điện báo cuối cùng đã viết thêm một câu
như vậy. Tôi nghĩ lại, đại khái là vào năm 1924 đã cùng Trương đại soái ra
Thanh Đảo, tận mắt nhìn thấy ông ta ra đi, và năm 1928, có tham gia vào vụ giúp
công chúa Anna Anastasia trốn
thoát đến nước Mỹ. Quả thật là đã làm phiền. Tôi đọc bức điện báo mà ...chảy nước
bọt, vì lúc ấy, ông ta đã được phía London đồng ý, chỉ đợi tôi trực tiếp ra lệnh,
do đó tôi tìm mọi cách, trong một thời gian ngắn phải đến được Hương Cảng. Lúc
này, tàu thuyền các công ty đều không thể phối hợp, ngoại trừ chiếc thủy phi cơ
"Trân Châu Trung Quốc". Tôi đã gửi điện tín hỏi Anne, vừa lúc cô ta rất
vui khi biết sẽ cùng tôi đồng hành. Buổi sáng ngày thứ hai chúng tôi bay đến
Hương Cảng. Tại đây, việc đầu tiên là phải tìm gặp ngay tổ tình báo để nắm rõ
tình hình, phát hiện Nguyễn Ái Quốc thực tế đã được Tòa án Hương Cảng xếp vào
loại chính trị phạm, đã tuyên án nhưng không phải dẫn độ về An Nam. Ông ta hiện
chỉ lưu lại Hương Cảng một thời
gian ngắn, rồi lập tức bị buộc xuất cảnh. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc lên một chiêc
tàuf khách Anh Quốc để rời Hương Cảng nhưng bị phía Singapore buộc phải quay lại. Có tin
chính phủ Pháp đã cử sát thủ đến Hương
Cảng nên cảnh sát không thể không giam Nguyễn Ái Quốc vào ngục.
Cảnh sát Hương Cảng rất cần một người
có khả năng bí mật dưa Nguyễn Ái Quốc xuất cảnh an toàn, vì thế họ nhờ MI6 giúp
đỡ. Thời kỳ ấy cảnh sát và MI5 cùng thuộc hệ thống nội chính, có quan hệ với
nhau mật thiết, còn chúng tôi thuộc bộ phận ngoại giao của MI6, trái lại, thường
có mâu thuẫn. Năm trước, khi bắt giữ Nguyễn Ái Quốc, nói thẳng ra là cảnh sát
tham công, đã không biết nhìn sự việc xa hơn, tự tiện hành động, đến nỗi xẩy ra
sự cố "nướng khoai bỏng tay", bây giờ mới quay về tìm MI6. Vì thế, các
điệp viên của tình báo Hương Cảng rất không muốn tham gia vào vụ này. Tuy
nhiên, đây cũng là lúc tôi được lệnh của tiên sinh M. từ Thượng Hải đến Hương Cảng
xử lý công việc. Rốt cuộc nhiệm vụ lại rơi xuống đầu tôi. Thật là tự mình đâm đầu
vào tròng. Nghĩ tới những tình huống phức tạp này, trong đầu tôi mới lờ mờ nghĩ
đến mối quan hệ giữa tiên sinh M. và Toàn quyền Hương Cảng. Tuy vậy lại không
có bất cứ đầu mối nào nên tôi phải tự mình thăm dò Nguyễn Ái Quốc. Việc này
không đơn giản. Ông ta bị giam giữ ở một nơi cực kỳ bí mật mà ngay cả các luật
sư biện hộ cũng không được gặp mặt thân chủ, bởi lẽ, về lý mà nói, ông ta đã bị
trục xuất khỏi Hương Cảng, không còn liên quan gì đến chính quyền sở tại. Yêu cầu
cảnh sát giúp đỡ việc này là vô nghĩa. Thông qua một nguồn tin riêng, cuối cùng
tôi cũng đến được nơi giam giữ Nguyễn Ái Quốc, thậm chí còn kéo được cả luật sư
Loseby đi cùng.
Biện hộ cho Nguyễn Ái Quốc là luật sư Loseby, chủ tịch Công hội
luật sư Hương Cảng, rất có năng lực và kinh nghiệm. Ông ta thu thập chứng cứ,
biện giải đanh thép, nên qua chín phiên xử, Tòa án Hương Cảng phải chấp nhận luận
điểm Nguyễn Ái Quốc là một phần tử bất đồng chính kiến, mà không bị dẫn độ về
An Nam chịu mức án tử hình. Tôi
và Nguyễn Ái Quốc gặp nhau trong căn hầm của Tổng bộ cảnh sát. Ông ta là một
người trung niên thân hình ốm yếu, mắc bệnh phổi, xem tình hình sức khỏe không
tốt. Nguyễn Ái Quốc biết tiếng
Hoa và tiếng Pháp nên chúng tôi có thể nói chuyện được với nhau: "Tôi là
Paul Draken, đại diện Bộ Ngoại giao Anh Quốc - tôi nghĩ, chẳng cần để lộ mối
quan hệ của tôi với MI6 nên nói tiếp - được cử đến đây giúp đỡ tiên sinh xuất cảnh,
xin hỏi, ngài định đi đến nơi nào?". Nguyễn Ái Quốc uể oải trả lời trong
khi vẫn không dứt cơn ho: "Tôi muốn đến Liên Xô". "Liên Xô? Vậy
thì tốt nhất ngài nên qua lối Thượng
Hải - tôi nói tiếp - tôi sẽ cùng đi Thượng Hải với tiên sinh, đến đó ngài sẽ tự
quyết định nơi đi tiếp". Luật sư Loseby lo lắng hỏi: "Ngưới Pháp đã cử
sát thủ đến Hương Cảng, vậy làm sao có thể đảm bảo an toàn cho Nguyễn tiên sinh
xuất cảnh?". Cả hai chúng tôi đều liếc mắt về phía cảnh sát trưởng. Ông ta
bảo: "Tôi đã biết ý tứ của các ngài. Chúng tôi có thể bắt giữ sát thủ
Pháp, chỉ ngại chẳng may bí mật bị lộ, chính phủ làm sao giải thích được với nước
Pháp? - Cảnh sát trưởng vốn là tay cáo già, lõi đời xua tay thoái thác - Chỉ đề
nghị các ngài tìm được biện pháp xuất cảnh an toàn, tôi sẽ rất vui được thuận
nước giong thuyền, tuy nhiên, phải nói trước, vạn nhất sự việc vỡ lở, tôi sẽ
không thừa nhận, lúc đó sẽ đắc tội với chính quyền địa phương, mong các ngài
thông cảm".
Ra khỏi trụ sở Tổng bộ cảnh sát,
Loseby lớn tiếng chửi Cảnh sát trưởng là tên xảo trá, tôi chợt nảy ra một kế hoạch
khác. Loseby vốn rất quen thân với Toàn quyền Hương Cảng, nếu được ông ta đứng
ra giải quyết vụ này, có thể xem đấy là lá bùa hộ mệnh, sẽ tránh được sự thất bại
do ý đồ phản thùng của Cảnh sát trưởng. Nghĩ vậy, tôi bèn đóng giả làm khách của
Toàn quyền William Peel, sau đó sẽ sử dụng chiếc thủy phi cơ "Trân Châu
Hương Cảng" (China Pearl) của Anne Kennedy bay đến Thượng Hải. Tôi đem ý
kiến này trình bày với Loseby. Ông cảm thấy có thẻ thành công bèn phân công
nhau chuẩn bị hành động.
Anne Kennedy và phu nhân Loseby mới gặp
nhau mà đã như quen biết từ lâu. Hai người hẹn nhau đi dạo và uống trà vào buổi
trưa. Tôi tranh thủ đến bên Anne, nói là có một nhiệm vụ bí mật cần cô giúp đỡ.
Nghe xong, Anne vô cùng thích thú. Quen biết Anne đã nhiều năm, đây là lần đầu
tiên tôi đề nghị cô tham gia vào một nhiệm vụ mạo hiểm. Tôi cũng nói vài lời để
Anne yên tâm rồi thông báo thời gian, địa điểm và ám hiệu, hẹn giữa trưa ngày
thứ hai cho máy bay đến đợi sẵn ngoài biển.
Loseby cũng mời Phó Toàn quyền phu
nhân xuống ca nô uống trà sau 12 giờ trưa. Hiện tại chỉ còn một việc là làm thế
nào đưa được Nguyễn Ái Quốc từ nhà giam ra một cách an toàn. Tôi đồ rằng, thời
điểm này, các sát thủ Pháp đã lảng vảng khắp nơi, vì vậy, vào lúc giữa trưa,
tôi ăn mặc như một giáo sư đại học bước vào Tổng bộ cảnh sát. Nội vụ đã được Cảnh
sát trưởng thỏa thuận. Ông ta nói không cản trở nhưng cũng không giúp đỡ. Tôi đến
ngay phòng giam đề nghị Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng thay trang phục. Tôi cũng mặc
quần áo đã chuẩn bị sẵn từ trước, cùng ông ta thong thả bước ra khỏi cửa chính
Tổng bộ cảnh sát. Lúc ấy Loseby đã bố trí một chiếc xe cùng đội bảo vệ đến đón.
Chúng tôi lại thay đổi y phục. Lần này Nguyễn Ái Quốc mặc bộ lễ phục sang trọng,
còn tôi đóng bộ đồ trung úy hải quân trong vai phó quan, cùng lên chiếc xe hơi
sang trọng ra bến cảng rồi xuống tàu.
Hành trình hết sức thuận lợi, tuy rằng
lúc ấy mọi việc phải thật khẩn trương. Loseby phu nhân và Phó Toàn quyền phu
nhân vốn quen nhau từ trước, nên cuộc gặp mặt hết sức vui vẻ. Bàn trà được bày
sẵn trên boong. Loseby nhanh chóng cùng Nguyễn Ái Quốc xống khoang tàu. Tôi đến
buồng máy gặp thuyền trưởng và chỉ vào hải đồ ra lệnh cho tàu chạy đến tọa độ X
ngoài biển. Từ xa đã nhìn thấy "China Pearl" đậu tại vị trí dự định.
Tôi nhìn dồng hồ, thấy đã đến giờ bèn dùng đèn đánh tín hiệu. Anne cũng dùng
ánh đèn đáp lại. Chiếc xuồng được hạ thủy. Chúng tôi chia tay vợ chồng Loseby
và Phó Toàn quyền phu nhân. Bà Lose by còn gửi theo gói đồ điểm tâm cho ba người.
Chúng tôi vừa bước lên "China Pearl" thì Anne dã cho máy bay chạy
trên biển rồi bay vụt lên. Trên đường đi tôi đã thử nói chuyện với Nguyễn Ái Quốc
nhưng có vẻ như ông ta không muốn đáp lời. Đối với người Anh hình như ông không
mấy thiện cảm, cho dù chúng tôi đã làm hết cách để cứu tính mệnh ông, nhưng vẫn
không làm thay đổi được quan niệm của người An Nam này coi chúng tôi là tay sai
của chủ nghĩa đế quốc phương Tây.
Chiếc thủy phi cơ "China
Pearl" hạ cánh xuống bãi sông Hoàng Phố, tại đây những đồng chí của Nguyễn
Ái Quốc đưa thuyền ra đón ông. Nhiệm vụ của tôi đến đây là xong. Nghe nói sau
này Nguyễn Ái Quốc đi Mạc Tư Khoa vào học ở trường Đại học Lenin với mục tiêu về
nước tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, vận động nhân dân đấu tranh giành độc lập
dân tộc. Tôi có cảm giác quá trình hoạt động này có thấp thoáng hình bóng của
M. tiên sinh...
THIÊN II
Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người
Thời
gian và vũ đài hoạt động trùng nhau
Khoảng thời gian từ năm 1929 đến năm 1933, Nguyễn Ái Quốc và
Hồ Tập Chương mỗi người có một công tác riêng tại vùng duyên hải đông nam Trung
Quốc và Thailand, Malaysia,Singapore..., lần lượt thay nhau xuất hiện. Đặc biệt
vào năm 1930, Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Tập Chương đã cùng ở trong Ban trù bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Mùa hè
năm 1931, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương đồng thời bị bắt ở Hương Cảng và Quảng
Châu. Những hoạt động qua lại của hai người rất không rõ ràng, cũng không được
lưu trữ trong hồ sơ nên rất khó chứng minh. Năm 1934, Hồ Tập Chương được trao
nhiệm vụ thay thế thân phận Nguyễn Ái Quốc đã bị chết vào tháng tám năm 1932,
tiếp tục hoạt động. Vì thế, toàn bộ sự tích cuộc đời Hồ Tập Chương sau này là
phải bắt chước làm sao cho giống với phong cách sinh hoạt và làm việc thường
ngày của Nguyễn Ái Quốc, nhằm ráp nối cho khớp, mà sự kiện đầu tiên là "Từ
Hạ Môn đi Thượng Hải".
|
Tuy nhiên từ tháng tám năm 1932 đến đầu
năm 1933, có nửa năm là thời gian khống, nên người ta đã ngụy tạo ra sự kiện
Nguyễn "Ái Quốc lưu lại Hạ Môn nửa năm dưỡng bệnh". Tiếp nữa là, đầu
năm 1933, sau khi đã đến Thượng Hải, lại một lần nữa bắt người ta phải tin vào
"giả thuyết Paul Vaillant
Couturier" nhằm hóa giải cái chết của Nguyễn Ái Quốc. Tuy nhiên, ngụy tạo
ra thời gian từ mùa xuân năm 1934 Nguyễn Ái Quốc đi Mạc Tư Khoa lại nảy sinh nhứng
ý kiến khác nhau. Tóm lại, khoảng thời gian từ 1929 đến 1933, đem hành trạng của
Nguyễn Ái Quốc và hành trạng của Hồ Tập Chương gộp vào cho một người, tất nhiên
sẽ nảy sinh mâu thuẫn. Cho nên, bịa đặt ra những chuyện không có thật trong lịch
sử, giống như cây kim bọc trong giẻ, đến một ngày nào đó, sự thật sẽ được phơi
bày.
Cùng lên vũ đài, một ẩn một hiện
Tháng giêng năm 1949, tạp chí "Sinh hoạt nội bộ"
kỳ thứ 13 của Việt Nam có đăng tải một bài viết nhan đề "Đảng ta"
do Hồ Chí Minh viết dưới bút danh Trần Thắng Lợi. Nhà xuất bản
Chính trị Quôc gia đã đưa "Đảng ta" vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, trang 547. Trong "Đảng
ta" có một đoạn nói rất rõ ràng như sau:
Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn
ái Quốc trở lại Tàu, cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng.Trong 7,
8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và
tôi,nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng
chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc
lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám...
(Tác giả nhận định, nguyên Văn "Tản Anh" là viết
tắt của Lê Tản Anh. Hồi ký cách mạng "Giọt nước trong biển cả" của
Hoàng Văn Hoan, trang 4 có đoạn viết về Lê Tản Anh là thành viên sáng lập nhóm
"Tâm tâm xã").
Đọc đến đoạn văn xác thực này, tôi như muốn nhảy dựng lên.
Tại làm sao mà trong một tập san chính thức của nhà nước lại xuất hiện câu văn:
"đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi". Câu văn này há chẳng khẳng định,
Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau đó sao? Năm 1929, Nguyễn
Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng tham gia tổ chức Hội nghị Hương Cảng ? Lúc mới đọc,
tôi cho rằng có sự nhầm lẫn khi viết, sau đọc đó đọc đi đọc lại nhiều lần, rà
soát cẩn thận từng chữ, và đi đến kết luận là hoàn toàn không có chuyện nhầm lẫn
làm tôi đặc biệt quan tâm.
Trở về tra xét lại thời kỳ 1929, 1930
trong bối cảnh thành lập Đảng Cộng sản, mới phát hiện ra sự thật là Nguyễn Ái
Quốc và Hồ Tập Chương là những người cùng tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Để tránh hiểu lầm chuyện trích dẫn, cắt xén, tôi xin dẫn nguyên văn từng
câu, từng chữ của đoạn văn trên:
" Năm 1929 (chính xác là ngày 19 tháng giêng năm 1929), trong khi đồng chí Nguyễn ái
Quốc đi vắng, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội khai toàn quốc Đại hội
ở Hương Cảng. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức đảng cộng sản, bị gạt đi, liền bỏ
hội nghị ra về.
Sau đó, trong nước dần dần
thành lập ba nhóm cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và
Đông Dương cộng sản Liên đoàn.
Một nước mà ba đảng cộng sản.
Cả ba nhóm đều ngầm hiểu như thế là sai. Quần chúng đều hiểu rằng như thế là
không đúng. Cả ba nhóm đều tìm cách để đi đến thống nhất. Nhưng bệnh hẹp hòi và
cách làm không khéo, cho nên càng muốn gần nhau, lại càng xa nhau.
Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn
ái Quốc trở lại Tàu(chính xác là ngày 20 tháng giêng năm 1930), cùng với đại biểu
các nhóm khai hội ở Hương Cảng.
Trong 7, 8 đại biểu,(1) ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi, nay chỉ
còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng
chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng
Tháng Tám.
Để giữ bí mật, các đại biểu
khai hội bên sân đá banh của người Tàu. Vừa giả xem đá banh, vừa bàn bạc về Đảng.
Sau cuộc bàn bạc sôi nổi, và
sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn ái Quốc, mọi người đều tán thành
thống nhất cả ba nhóm thành một đảng.
Thế là Đảng ta chân chính
thành lập...".
Câu văn "Ngoài
đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh
Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng
và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám" bao hàm ý nghĩa gì? Vì sao Hồ Chí Minh
lại viết câu này? Qua nhiều lần suy nghĩ kết hợp với việc tra cứu hồ sơ, tài liệu
"Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam", tôi mới hiểu, thực ra, lúc ấy Hồ
Chí Minh chỉ kể lại một cách chân thật quá trình thành lập Đảng mà không hề có ẩn
ý gì bên trong. Xét về mặt nội dung, câu văn trên biểu thị ba ý nghĩa sau:
1 - Vào năm 1930, Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minh là 2 trong số 7, 8 đại biểu sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2 -Vào năm 1949 khi Hồ Chí Minh viết
bài "Đảng ta", về mặt công khai, ông còn chưa thừa nhận mình là Nguyễn
Ái Quốc, vì thế, vô tình đã hạ bút viết "Nguyễn Ái Quốc và tôi". Việc
này trong "Truyện Hồ Chí Minh" của William
J. Duiker, trang 449 đã viết rất rõ ràng: "Sau hai mươi năm giấu giếm thân
phận, hiện tại Hồ Chí Minh 67 tuổi, cuối cùng ông cũng thừa nhận mình là Nguyễn
Ái Quốc, để rồi các phương tiện truyền thông chính thức của nhà nước ra sức ca
ngợi ông như một người suốt đời hy sinh vì lý tưởng cách mạng, phục vụ tổ quốc".
Tiếp đó, tác giả lại viết: "Trước đây, Hồ Chí Minh chưa thừa nhận mình là
Nguyễn Ái Quốc, vì vào năm 1946, khi triệu tập Hội nghị Quốc dân đại hội, Bộ
trưởng Lao động Nguyễn Văn Thái có đề nghị vinh danh Hồ Chí Minh là "công dân số một" của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bởi
lẽ, lúc ấy thân phận Hồ Chí Minh chưa được xác nhận là Nguyễn Ái Quốc. Hồ Chí Minh chính là Hoa kiều tại
Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam, phái viên "Quốc tế cộng sản" được cử đến Việt Nam với nhiệm
vụ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Quốc dân đại hội biểu dương sự cống hiến
của ông, đồng thời ban tặng danh hiệu "người công dân số một". Nếu quả
thật Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc cùng là người Việt Nam, liệu còn có động tác
giấu đầu hở đuôi "người công dân số một" này không?
3 - Trước sau năm 1930, Nguyễn Ái Quốc
và Hồ Chí Minh cùng làm việc ở Cục Phương Đông Thượng Hải thuộcQuốc tế cộng sản.
Hai người thường qua lại Hương Cảng
và Thượng Hải. Lúc ấy Hồ Chí Minh là phái viên của Cục Phương Đông Quốc tế cộng sản đến hoạt động ở Hương Cảng. Vậy thì người mang tên Hồ
Chí Minh không phải Nguyễn Ái Quốc này là ai? Ông ta chính là phái viên Quốc tế cộng sản Hồ Tập Chương, thành
viên tham gia Ban trù bị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, được các yếu
nhân củaTrung cộng và Việt cộng hết sức giữ bí mật. Nhân vật vào tháng bảy năm
1931 bị Quốc dân đảng bắt giam tại nhà lao Quảng Châu là Hồ Tập Chương, sau đó
, đến năm 1934, ông được Quốc tế
cộng sản chỉ thị thay thế thân phận Nguyễn Ái Quốc.
Chú thích (1): Bảy vị đại biểu tại Hội nghị gồm Hồ Tập
Chương là phái viên liên lạc của Quốc tế cộng sản, đương nhiên đứng đầu danh
sách, tuy nhiên tài liệu ghi chép danh sách không thể tìm thấy, có khả năng đã
bị sửa chữa hoặc giấu đi. Chỉ biết, sau khi thành lập Đảng, có 7 (bảy) vị Ủy
viên Trung ương. Căn cứ vào các tư liệu lịch sử còn lại, bảy Ủy viên là: Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Tùng mậu, Trịnh Đình Cửu, Lê Tản Anh, Trần Văn Cung, Lê Hồng Sơn và
Hồ Tập Chương.
Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ ngày 1 đến 19 tháng năm năm
1929, Đại hội đại biểu toàn quốc "Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội"
do Lam Đức Thư khởi xướng tổ chức tại Hương Cảng. Mới vào hội nghị đã xẩy ra
xung đột nghiêm trọng giữa các phe phái. Các đại biểu Bắc Kỳ đề nghị thành lập
Đảng Cộng sản Đông Dương. Lam Đức Thư và Lê Hống Sơn do chưa có kế hoạch chuẩn
bị thành lập chính đảng nên đã cự tuyệt đổi tên "Đồng chí hội". Các đại
biểu Bắc Kỳ là Trần Văn Cung, Nguyễn Tuấn, Ngô Gia Tự... giận dữ bỏ hội nghị về
nước. Hôi nghị tuyên bố tan vỡ.
Ngày 17 tháng sáu năm 1929, Bắc Kỳ
tuyên bố thành lập "Đảng Cộng sản Đông Dương". Sau khi Hồ Tùng Mậu và
Hoàng Bộ Quân bị khai trừ khỏi "Đồng chí hội", tháng mười cùng năm,
Nam Kỳ thành lập "An Nam Cộng sản đảng". Tân Việt đảng của Trung Kỳ
cũng chuyển thành "Đông Dương Cộng sản liên đoàn" vào tháng giêng năm
1930.
Ngày 20 tháng giêng năm 1930, Nguyễn
Ái Quốc từ Xiêm La về đến Quảng Châu. Hồ Tùng Mậu cử phái viên đón ở Hương Cảng.
Sau khi bắt liên lạc được với Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đề nghị
đại diện ba tổ chức cộng sản đối lập ở Việt Nam đến Hương Cảng hợp nhất thành một
chính đảng. Từ ngày 3 tháng hai đến ngày 7 tháng hai năm 1930, Nguyễn Ái Quốc
triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản tại một phòng nhỏ trong khu
lao động Cửu Long, sau đó lại được chuyển xuống một căn hầm bên dưới trụ sở câu
lạc bộ bóng đá. Các đại biểu nhận đều nhận thấy những bất đồng của ba tổ chức cộng
sản dẫn đến sự xung đột nghiêm trọng vừa qua, nên sau đó đã chấp hành chỉ lệnh
củaQuốc tế cộng sản, hợp nhất ba tổ chức thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bệnh phổi trầm trọng, sức khỏe suy
giảm
Sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc đang dự kiến thành lập "Liên đoàn Thanh niên cách mạng"
tại Quảng Châu thì bị bãi miễn. Sự kiện này chứng tỏ, sau khi tân chính đảng
hình thành, Nguyễn Ái Quốc tỏ ra không có khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng.Ý
chí hăm hở tiêu tan dần theo năm tháng, địa vị lãnh đạo lung lay mà nguyên nhân
chủ yếu là tình trạng sức khỏe. Lúc này Quốc
tế cộng sản cũng không còn xem Nguyễn Ái Quốc là lãnh đạo duy nhất. Những năm ấy,
lưu học sinh Việt nam được Quốc tế cộng sản dày công đào tạo tại Liên Xô, rất
được chú trọng.
1- Đầu tháng chín năm 1928, Việt Nam
Thanh niên cách mạng đồng chí hội đã có sự chuyển bến về tư tưởng sau Hội nghị
VI Quốc tế cộng sản. Lúc ấy, Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm La, mắc bệnh lao phổi trầm
trọng, gần như mất hẳn liên lạc với Quốc tế cộng sản và Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí hội. Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc thông báo với Ngô Đức Trị là
ông ta đang ở Xiêm La, bị bệnh hơn một năm. Từ tháng bảy đến tháng chín, Nguyễn
Ái Quốc viết 6 bức thư gửi Cục Viễn Đông, trong bức thư đề ngày 2 tháng chín,
ông giải thích, từ ngày 13 tháng tám đã hoàn toàn suy sụp bởi bệnh lao phổi,
thường xuyên ho ra máu. Nói cách khác, vì tình trạng sức khỏe không tốt, cứ mỗi
ngày, Nguyễn Ái Quốc lại xa dần quyền lực.
2 - Năm 1929, Quốc tế cộng sản đã trì
hoãn lâu ngày kế hoạch thành lập Đảng
Cộng sản Đông Nam Á, chuyển sang quyết nghị thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngày 27 tháng mười năm 1929, Quốc
tế cộng sản ra "Chỉ thị công tác Đông Nam Á", giao cho nhóm lưu học
sinh vừa tốt nghiệp Học viện Stalin là Trần Phú và Ngô Đức Trị trở lại Việt Nam
thực hiện "Nhiệm vụ cấp bách của đảng viên cộng sản Đông Nam Á". Ở phần
phụ lục "Vấn đề kỹ thuật" của "Chỉ thị công tác" đã ghi rõ:
"Trong nhiệm vụ của Đông Nam Á, nhất định phải dưa đồng chí Trần Phú và đồng
chí Ngô Đức Trị vào cương vị lãnh tụ. Đồng chí Trần Phú làm chủ tịch là phù hợp,
ưu tiên đồng chí Ngô Đức Trị".
3 - Cuối tháng 12 năm 1930, vì nhiệm vụ
và quyền hạn của Nguyễn Ái Quốc không được xác định, ông liền gửi một bức thư đến
Quốc tế cộng sản yêu cầu phải dược trao quyền lãnh đạo rõ ràng. Thư viết:
"Hiện nay tôi không biết chức vụ của mình như thế nào. Tôi đang là Ủy viên
Trung ương mà tự nhiên lại trở thành đảng viên thường. Phải chăng Quốc tế cộng
sản đã đình chỉ chức vụ, và giờ đay tôi chỉ là nhân viên của Cục Viễn Đông phải
không? Rất mong được các đồng chí giải thích".
Cùng tên nên có sự nhầm lẫn
Thời gian từ năm 1929 đến năm 1933,
Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương cùng hoạt động trên vũ đài chính trị, đặc biệt
vào năm 1930 và nửa đầu năm 1931, hai người từng nhiều lần qua lại làm việc với
nhau. Sở dĩ vào sau năm 1934, Quốc tế cộng sản
có ý đồ lấy Hồ Tập Chương thay thế thân phận Nguyễn Ái Quốc, là bởi vì vào những
năm 1929 đến năm 1933, hầu hết những hoạt động của Hồ Tập Chương đều mang tên Hồ Chí Minh. Do đó mọi việc Hồ Tập Chương làm đều được hiểu một
cách sai lầm là của Nguyễn Ái Quốc. Tuy nhiên, khi thẩm định kỹ các đoạn tư liệu
ghi chép về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, nếu không thật chú ý, sẽ rất khó làm
rõ được chỗ nào là thuộc về Nguyễn Ái Quốc, chỗ nào thuộc về Hồ Tập Chương. Ví
dụ như, vào tháng sáu năm 1931, cảnh sát Hương
Cảng bắt giữ Nguyễn Ái Quốc tại một căn phòng số nhà 186, phố Tam long, Hương Cảng,
tìm được một tấm hộ chiếu dán ảnh Hồ Chí Minh. Bản hộ chiếu này đương nhiên
không phải của Nguyễn Ái Quốc mà là của Hồ Chí Minh . Nếu không thì việc gì phải
nói "hộ chiếu dán ảnh Hồ Chí Minh" mà là "tìm được một hộ chiếu
dán ảnh Nguyễn Ái Quốc" chẳng phải là rõ ràng sao? Huống hồ, bí danh Hồ
Chí Minh này, mãi dến năm 1942 mới có. Rốt cuộc Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tập Chương là Hồ Tập Chương, hai
người hoàn toàn không phải là một. Nội dung đăng ký hộ chiếu càng nói rõ không
thể là Nguyễn Ái Quốc. Tấm hộ chiếu ghi "công dân Trung Quốc, đến Thailand
quan hệ công tác, thời hạn 6 tháng, do Lãnh sự quán Trung Quốc ký.
Căn cứ vào tấm ảnh Hồ Chí Minh trong hộ chiếu, sẽ biết rõ
vào khoảng trước, sau năm 1930, tất cả những gì Hồ Tập Chương viết và làm đều bị hiểu
là của Nguyễn Ái Quốc. Từ năm 1929 đến năm 1931, Hồ Tập Chương là phái viên của
Quốc tế cộng sản tại Cục Phương Đông tham gia hoạt động thành lập Đảng Cộng sản
ở Việt Nam, Thailand, Malaysia cùng nhiệm vụ như Nguyễn Ái Quốc và hai người đã
nhiều lần làm việc với nhau. Tuy nhiên, những tài liệu ghi chép về thời kỳ này
lại chỉ ghi danh Hồ Chí Minh. Do
vậy, công tác của Hồ Tập Chương bị cố ý ẩn giấu hoặc chuyển dịch sang
cho Nguyễn Ái Quốc, vì thế, trong tất các hồ sơ còn lại đều không có tên Hồ Tập Chương.
Hiện nay, căn cứ theo Sophie Quinn - Judge trong "Những
năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", chương 5, "Cao trào
cách mạng 1930-1931", tham chiếu với những tài liệu có liên quan đến Hồ
Chí Minh trong thời kỳ này, tôi đã tiến hành phân tích và tách được những ghi
chép về hoạt động của Hồ Tập
Chương, kết qủa cho thấy, Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Chí Minh không phải là một người. Hoạt động của họ, thời kỳ 1929-1933 là tương
hỗ theo kiểu "râu ông nọ cắm cằm bà kia"(nguyên văn "mũ ông
Trương, ông Lý đội"). Xin dẫn ra một số tài liệu dưới đây để so sánh, đối
chiếu:
1 - Mùa thu năm 1928, Bí thư
thứ nhất Chi bộ Quốc tế cộng sản
Cục Viễn Đông tại Thượng Hải quyết
định thành lập tổ chức "Liên minh các dân tộc phương Đông bị áp bức".
Trụ sở Liên minh đặt tại Singapore, trực tiếp lãnh đạo các tổ chức cộng sản
Đông Nam Á và Bán Đảo Đông Dương. Malaysia, Indonesia, Myanmar, Thailand và Việt
Nam đều trực thuộc cơ quan này. (Dẫn từ William
J. Duiker, trong "Truyện Hồ Chí Minh", trang 161)
2 - Ngày 12 tháng mười một năm 1929,
tiến hành hội nghị thảo luận tái lập Đảng Cộng sản Nam Dương (Indonesia). Quốc
tế cộng sản hầu như không giải thích được khái niệm vị trí địa lý của vùng Nam
Hải Trung Quốc (vùng biển phía nam Trung Quốc). Người Châu Âu thuộc Cục Viễn
Đông cho rằng Singapore nằm giữa Ấn Độ và Indonesia, thuộc quyền quản lý của Cục
Trung Đông, cho nên Kuusinen (của Quốc tế cộng sản) mới xem Singapore là khu vực
Ấn Độ và Indonesia làm mục tiêu công tác. (Tác giả nhận định: Nhà tưởng niệm Chủ
tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội có một bản sơ đồ điều
tra thực địa ngày 3 tháng ba năm 1930, vẽ giản đồ vùng phụ cận giữa Singapore
và bán đảo Mã lai kèm theo chú giải bằng tiếng Hoa và tiếng Anh, ký tên Mục
Hàm. Căn cứ vào bút tích tiếng Anh cùng những chứng cứ tra cứu được, bản sơ đồ
này, chính là do Hồ Tập Chương vẽ.
Lúc ấy, Nguyễn Ái Quốc đang ở Xiêm La
chữa bệnh lao phổi, thời gian vừa đúng một năm. Hơn nữa, đây cũng là lúc giữa
Nguyễn Ái Quốc và Quốc tế cộng sản đã hoàn toàn mất liên lạc, chưa từng được Quốc
tế cộng sản giao nhiệm vụ công tác, nên không thể có khả năng qua lại vùng Bán
đảo Mã Lai điều tra thực địa vẽ sơ đồ. Từ tấm sơ đồ có thẻ xác dịnh những dòng
chữ tiếng Anh không phải bút tích Nguyễn Ái Quốc , cũng chưa bao giờ thấy ông
có bí danh Mục Hàm ký trên các văn bản).
Nguồn dẫn:. Sophie Quinn - Judge trong
"Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", trang 148. Phần
phụ lục kèm theo sơ đồ Vùng phụ cận Bán đảo Mã Lai Á của Mục Hàm và Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Chí Minh thân bút bằng tiếng Anh.
3 - Đầu năm 1930, Rylski báo cáo, khu
vực Nam Dương, Đông Nam Á của Cục
Viễn Đông đang thiếu người liên lạc, hầu như chỉ trông chờ vào các đồng chí
Trung Quốc mà không có biên chế riêng để phái đến Đông Dương chỉ đạo. Thibault
và Quốc tế cộng sản cũng đã mất liên lạc. Vì thế, chúng tôi quyết định cử đồng
chí Hồ Chí Minh đảm nhiệm công
tác liên lạc, đồng thời giao một số công việc, tiếp tục hoạt động ở trong nước.
Hồ Chí Minh sẽ có phương pháp làm việc hiệu quả và rất có thể sẽ tìm được
nguyên nhân Thibault bị mất liên lạc. Mặt khác Mạc Tư Khoa cử Ryski hay Eisler
đều không biết Trung văn nên rất khó làm việc. (Tác giả nhận định: Vào năm
1930, trình độ Nguyễn Ái Quốc nghe, nói, đọc và viết Trung văn là kém, không thể
làm công việc phiên dịch tiếng Trung. Nguồn dẫn từ Sophie Quinn - Judge trong
"Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", trang 148 và
162).
4 - Ngày 27 tháng mười năm 1929, Quốc tế cộng sản gửi một bức thư đến
ban lãnh đạo An Nam cộng sản đảng tạiHương Cảng, nói đến việc phái viên của Đảng
Cộng sản Trung Quốc đến truyền đạt chỉ thị. Ngày 16 tháng mười hai năm 1929, Hồ
Tùng Mậu dẫn một phái viên Quốc tế
cộng sản đến Hương Cảng. Vị phái
viên này thông báo, Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng và Đông
Dương cộng sản liên đoàn đều chưa chấp nhận thành lập Đảng Cộng sản, vì thế
không được Quốc tế cộng sản công
nhận. Cho đến trước khi hợp nhất ba tổ chức cộng sản, khu vực Đông Nam Á vẫn chỉ
được coi là một đoàn thể của chủ nghĩa Marx dưới sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản.
(Tác giả nhận xét: Vị đại biểu Trung Quốc, phái viên Quốc tế cộng sản chính là
Hồ Tập Chương. Thân phận Hồ Tập Chương lúc ấy, ngoài việc là phái viên Quốc tế
cộng sản được cử đến hoạt động ở Đông Dương, còn là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nguồn dẫn từ: William J. Duiker, trong "Truyện
Hồ Chí Minh"- trang
161).
5 - Năm
1930, "Liên minh mậu dịch Thái Bình Dương" tại Vladivostok lập ra một cơ quan chuyên
trách. Hồ Chí Minh được Cục Viễn Đông tại Thượng Hải điều động đến công tác, mở
một khóa huấn luyện tuyên truyền 3 tháng cho các Hoa kiều tại Việt nam là Lê Quảng
Đạt, Hồ Tùng Mậu và vợ là Lý Phương Thuận. (Tác giả nhận xét: Năm 1930, Nguyễn
Ái Quốc đã có thâm niên mười năm là đảng viên cộng sản, vả lại, năm 1924, ông
ta dã được học một khóa huấn luyện củaQuốc tế cộng sản ở Đại học Phương Đông Mạc
Tư Khoa, nên không có nhu cầu giáo dục ngắn hạn. Trong khi ấy, Hồ Tập Chương mới
đến công tác tại "Liên minh mậu dịch Thái Bình Dương", rất cần tham
gia khóa học này. Nguồn dẫn từ Sophie
Quinn - Judge trong "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh,
1911-1941", trang 162).
6 - Tháng tư năm 1930, Cục Viễn Đông gửi đi một bức thư không
ký tên, nói là sẽ có một đồng chí Trung Quốc "nhận chỉ thị của chúng
tôi" đến Singapore
tham gia Đại hội Đảng Cộng sản Malaysia. Tháng tư năm 1930 Ủy viên Đoàn Chủ tịch
Phương Nam lâm thời Ngô Gia Tự được biết, một vị đại biểu Trung Quốc thuộc Cục
Viễn Đông, được được phái từThượng Hải đến
Singapore, giữa đường đã ghé qua Sài Gòn. Vị đại biểu này cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam trực thuộcCục
Viễn Đông
là không hợp lý. Đây chính là điều ông phản đối.
(Tác giả nhận định: Nguyễn Ái Quốc rất
tích cực chủ trương đảng Cộng sản trực tiếp chịu sự chỉ đạo của Cục Viễn Đông, trong khi ấy, vị phái
viên Trung Quốc này lại chủ trương các đảng cộng sản vùng Đông Nam Á lại trực
thuộc Bí thư xứ Singapore. Rõ ràng hai quan điểm này là bất dồng. Vị đại biểu
Trung Quốc ấy chính là Hồ Tập Chương. Nguồn dẫn từSophie Quinn - Judge trong
"Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", trang 162,
164).
7 - Tháng tư năm 1930, khai mạc lần thứ
nhất "Hội nghị Liên minh Trung Quốc phản đối chủ nghĩa đế quốc". Các
đại biểu gồm Ấn Độ, Hàn Quốc, Nam Dương, Đài Loan, Đông Nam Á, Trung Quốc. Liên
minh sẽ đặt trụ sở ở Singapore. Hồ
Chí Minh cũng có khả năng tham gia hội nghị này.
(Tác giả nhận định: Ông Hồ Chí Minh
này chính là Hồ Tập Chương. Nguồn
dẫn từ Sophie Quinn - Judge trong "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí
Minh, 1911-1941", trang 167).
8 - Ngày 18 tháng năm năm 1930, Eisler
và Bespalov gửi văn bản đến cơ quan bí thư Cục Phương Đông, nội dung là cử Hồ
Chí Minh đến Singapore tham dự Hội nghi Malaysia cùng với việc
lựa chọn đại biểu đi Mạc Tư Khoa tham gia "Hội nghị Quốc tế Lao động đỏ"
lần thứ V. (Tác giả nhận định, Hồ Chí Minh này chính là Hồ Tập Chương, phụ trách công tác liên
lạc, tuyên truyền vận động giai cấp công nhân. Nguồn dẫn từ Sophie Quinn - Judge trong
"Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", trang 168).
9 - Tháng sáu năm 1930, Ban Bí thư Cục
Phương Đông cử một đại biểu đi Xiêm La thúc giục Xiêm La ủy viên hội (do các đảng
viên Trung Quốc thành lập), kết hợp với số đảng viên Đông Bắc bộ Việt Nam thành
một chi bộ đảng. (Tác giả nhận định, vị phái viên mà Cục Phương Đông cử đến
Xiêm la chính là Hồ Tập Chương mà không phải là Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc vào cuối tháng ba năm1930 đã đến Bangkok thông báo với kiều dân
Việt Nam về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng theo dõi việc
thành lập Đảng Cộng sản Thailand. Khoảng thời gian này, cả Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương đều được Quốc tế cộng sản giao phó nhiệm vụ. Có
một tài liệu nằm trong văn kiện "Nghiên cứu lịch sử nước Nga hiện đại"
là "Báo cáo tình hình phổ biến của Xiêm La", nguyên văn bằng tiếng
Trung, không ký tên. Căn cứ vào nội dung mà phán đoán , thì bản báo cáo này do
Hồ Tập Chương viết. Trước năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chưa thể đủ trình độ để viết những báo cáo
trường thiên đại luận bằng Hoa ngữ, cũng chưa từng thấy ông dùng Trung văn
trong bất cứ văn kiện nào. Nguồn dẫn từ Sophie
Quinn - Judge trong "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh,
1911-1941", trang 169.
10 - Thời gian 1930 - 1931, căn cứ vào
quyển thứ 3 trong "Hồ Chí MInh toàn tập", Các báo cảo gửi Quốc tế cộng sản, nguyên văn bằng tiếng
Anh, tiếng Pháp và tiếng Trung . Đối với văn kiện bằng tiếng Anh, những bài trường
thiên đại luận, chính xác là đều do Hồ Tập Chương viết. Trong đó, hai bản báo
cáo đề ngày 5 tháng ba năm 1930 (liên quan đến tình hình vận động cách mạng ở
Việt Nam), và ngày 20 tháng chín năm 1930 (vận động cách mạng Đông Dương), cũng
có thể khẳng định là do Hồ Tập Chương viết.
Hãy lấy bản báo cáo liên quan đến tình
hình vận động cách mạng ở Việt nam để chứng minh. Bản báo cáo này không ký tên
( chữ ký hẳn đã bị Quốc tế cộng sản xóa), nguyên văn bằng tiếng Anh, dùng ngôi
thứ ba, gồm 8 trang, trình bày từ lúc thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam đến
phong trào Cần vương, phong trào Đông du và quá trình vận động quần chúng Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ đấu tranh chống Pháp. Nội dung bài viết, bút pháp so sánh với
Nguyễn Ái Quốc khác nhau rất xa. Đặc biệt, tác giả còn nhận định: "Các phần
tử trí thức Việt Nam không ngừng vượt trùng dương theo tổ chức đảng do một vị
hoàng thân làm chủ tịch và một vị đại văn hào làm tổng thư ký, hy vọng sẽ được
Nhật Bản giúp đỡ". Đoạn văn này được ghi chép vô cùng kỳ lạ, rõ ràng không
phải do Nguyễn Ái Quốc viết. "Hoàng thân" ở đây là chỉ thân vương Cường
Để, còn "đại văn hào" chính là Phan Bội Châu, lúc ấy là thủ lĩnh của
phong trào Đông du. Tuy nhiên, những danh từ "chủ tịch", "tổng
thư ký", "đại văn hào"...vào thời điểm những năm 1930, Nguyễn Ái
Quốc đều không thể sử dụng, đơn giản là vì lúc ấy nó chưa phổ biến. Hơn nữa,
không ít lần người viết dùng từ "An Nam" là một danh xưng khá miệt thị do thực dân Pháp gọi người
Việt Nam.
Tôi đã nghiên cứu kỹ mới phát hiện ra,
cách xưng hô này, lúc ấy là thông dụng đối với người Nhật Bản. Hồ Tập Chương là
người Đài Loan, rất am hiểu văn hóa Nhật nên mới dùng nhân xưng ngôi thứ ba để viết báo cáo.
Tuy nhiên, tôi dám chắc, bản báo cáo đã bị cắt xén. Nguyên văn ở sau hàng thứ
ba xuất hiện một tiểu chú thích, lại là chú thích (7) mà không có chú thích (1)
đến (6). Bản báo cáo có tất cả 13 tiểu chú nhưng không có nội dung kèm theo, từ
đó, tác giả phán đoán, bản báo cáo không phải do Nguyễn Ái Quốc viết, mà người
viết chính là Hồ Tập Chương, bút danh Mục Hàm.
Từ hai bản báo cáo trên, ta có thể thấy
rõ, Hồ Tập Chương đã từng
có mối quan hệ rất mật thiết với Đảng
Cộng sản Việt Nam.
11- Tại Long Châu, Quảng Tây vào năm
2005, Nhà triển lãm Hồ Chí Minh tiếp tục mở cửa. Trên tường trái trước cửa là
khối đá hoa cương màu hồng nhạt khắc những dòng chữ khải, giới thiệu tóm tắt địa
chỉ cơ quan bí mật của Cách mạng Việt Nam tại Long Châu. Nội dung đặc biệt đề cập
vào đầu năm 1931, các nhà cách mạng Việt Nam, lấy danh nghĩa buôn bán, đã thuê
phòng thiết lập cơ quan Cách mạng Việt Nam bí mật. Những người thường xuyên làm
việc ở đây chủ yếu là lãnh tụ Hồ Chí Minh và các Ủy viên Thường vụ Trung ương,
trong đó có Hoàng Văn Thụ, Lý Như Đông...
Ngày 27 tháng mười hai năm 2006, nhật báo Quảng Tây đăng một bài viết của
phóng viên Lý Vĩ Đông phỏng vấn Nông Nhị đại tẩu là vợ Nông Nhân Bảo. Nông Nhân
Bảo từng là Hoa kiều tại Việt nam. Nhị đại tẩu là người Việt. Nội dung bài viết
đề cập đến cuối năm 1930, tại nhà Nông Nhân Bảo, Hồ Chí Minh và Hoàng Văn Thụ lập
cơ sở liên lạc Cách mạng Việt Nam. Lúc ấy Hồ Chí Minh đã có dược điều kiện thuận
lợi để triển khai hoạt động, lại được Nông Nhân Bảo giới thiệu đến làm việc tại
một quán rượu ở đường Bạch Sa khoảng nửa năm. Sau khi Hồ Chí Minh rời Long Châu
đến Hương Cảng, việc liên lạc ở đây đều do Hoàng Văn Thụ đảm nhiệm.
Một bài viết khác vào ngày 9 tháng mười
hai năm 2006, phỏng vấn Tô Thúy Phúc là vợ Nông Kỳ Chấn. Bà Tô Thúy Phúc năm
nay đã 99 tuổi nhưng vẫn hoàn toàn minh mẫn. Bà hướng về chúng tôi kể lại tình
hình công tác lúc ấy của Hồ Chí Minh ở nhà mình: "Năm 1930, khởi nghĩa
Long Châu thành lập Hồng Bát quân, Nông Kỳ Chấn được cử làm tiểu đội trưởng Nông
dân xích vệ quân. Không lâu, Hồng Bát quân rút khỏi Long Châu. Cấp trên thông
báo là, Nông Kỳ Chấn tạm rút vào hoạt động bí mât, chờ đợi thời cơ. Một thời
gian sau, ông ấy trở về làm hương trưởng Long Châu. Chức hương trưởng chỉ là
cái vỏ bên ngoài, thực chất bên trong là liên lạc viên của Đảng Cộng sản. Năm ấy,
sau khi trạm liên lạc bí mật
được thành lập, Hồ Chí Minh lấy nhà Nông Kỳ Chấn làm điểm dừng chân. Để che mắt
người ngoài, ông nói Hồ Chí Minh là người bà con từ quê ra giúp việc đồng áng.
Hồ Chí Minh giỏi việc nhà nông, từ cho gà lợn ăn đến giã gạo, gánh lúa, cày bừa
ruộng đều làm được".
Theo những bài báo trên, rõ ràng cho thấy cuối năm 1930 đến
tháng sáu năm 1931, Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông đã hoạt động ở Long
Châu thuộc khu vực biên giới Việt Trung. Vì thế, vị Hồ Chí Minh này không thể
là Nguyễn Ái Quốc. Căn cứ theo thời gian hoạt động, địa bàn hoạt động, thì lúc ấy,
Nguyễn Ái Quốc đang "chu du" ở Hương Cảng. Cũng vào thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc
và Nguyễn Thị Minh Khai đang yêu nhau thắm thiết, cho nên, không thể bí mật hoạt
động ở Quảng Tây.
Hồ sơ Hồ Tập
Chương bị bắt ở Quảng Châu
Vào lúc 2 giờ sáng ngày 6 tháng sáu năm 1931, Nguyễn Ái Quốc
bị cảnh sát Hương Cảng bắt giữ. Nguyên nhân bị bắt là, một đảng viên Cộng sản
tên là Serge Lefrance của Ban bí thư Công hội Thái Bình Dương, đã tiết lộ bí mật Cục Viễn Đông có liên quan đến Nguyễn
Ái Quốc. Việc Nguyễn Ái Quốc bị bắt
ở Hương Cảng đã trở thành một sự kiện quốc tế được báo chí đưa tin, sau này lại
còn được làm thành phim, hầu hết công chúng đều biết. Thế nhưng, việc Hồ Tập
Chương thì ngược lại, hoàn toàn bí mật. Vì có liên quan đến vụ Noulens nên các
thành viên của tổ chức "Công hội Thái Bình Dương" trực thuộc Quốc tế cộng sản, đều bị truy bắt, phải
bỏ Thượng Hải chạy về Quảng Châu, cuối cùng Hồ Tập Chương bị
đặc vụ Quốc dân đảng bắt được vào mùa hè năm 1931.
Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng và Hồ Tập Chương bị bắt ở
Quảng Châu, về thời gian, địa điểm, nội dung sự việc rất giống nhau, rất dễ để
liên kết từ hai thành một. Đương nhiên với sự ẩn giấu của Trung cộng, người đời
chỉ biết sự kiện "Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng" mà không hề biết
đến "Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng Châu", thậm chí còn đem hai sự kiện
khác nhau gộp lại làm một. Như trên đã nói, liên quan đến việc Hồ Tập Chương bị
bắt ở Quảng Châu, chưa từng thấy báo chí đưa tin, lại càng không được ghi chép ở
bất cứ hồ sơ nào. Cho đến năm 2000, khi tập "Hồi ký Trịnh Siêu Lân"
được xuất bản, độc giả mới
biết đến sự kiện này:
"Mùa hè năm 1931, Phó Đại Khánh ở
nhà giam Quảng Châu gặp Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh nhờ Phó Đại Khánh chuyển lời đề
nghị Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm cách giải cứu". (Xem thêm: "Lịch sử
và hồi ức- Ghi chép cuối đời của Trịnh Siêu Lân", quyển 2 "Truyện Phó
Đại Khánh", hoặc tham khảo "Hồi ức Trịnh Siêu Lân", trích yếu
như phụ lục 2 của tác giả).
Sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu, trước và sau Trịnh
Siêu Lân (Truyện Phó Đại Khánh), chưa có bất cứ tờ báo nào đưa tin, thậm chí
còn bị ngoa truyền lầm lẫn sang sự kiện Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng. Tuy
nhiên, gia đình chúng tôi lại biết khá rõ qua tin đồn. Ước khoảng vào năm 1932,
Hồ Tập Chương có gửi người bạn một số tiền về Đài Loan giao cho người nhà, đồng
thời thông báo để các bậc phụ huynh biết là ông đang bị giam giữ ở Quảng Châu.
Nhiều năm sau, một người anh họ lại đưa cho tôi tấm ảnh Hồ Tập Chương rồi bảo:
"bị trói gô cổ, chân xích, tay cùm" làm tôi vô cùng ghi nhớ. Nay đối
chiếu với bài báo "Phía dưới Nam Sơn dằng dặc" có một thiên bình luận
của Trịnh Siêu Lân trong "Truyện Phó Đại Khánh", đã đủ để chứng minh
Hồ Chí Minh quả thực đã bị bắt ở Quảng Châu. Chỉ vì người đời nhầm lẫn từ
"Phùng Kinh" thành "Mã Lương" (tự dạng các chữ Hán phồn thể
này khá giống nhau), nên đã đem Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc đồng nhất thành một
người, rồi viết báo, viết tiểu sử, in ấn phát hành rộng rãi, khiến cho "
Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng'" và "Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng
Châu" bị hiểu lầm thành cùng một sự kiện.
Những ghi chép về sự kiện Hồ Chí
Minh bị bắt ở Quảng Châu
Mùa hè năm 1931, Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng Châu, Đảng Cộng
sản Trung Quốc tát nhiên biết rõ chuyện này. Tuy nhiên, vì có liên quan đến
Nguyễn Ái Quốc, nên các hồ sơ của vụ này đều được giấu đi. Mặt khác, cũng có thể,
hai sự kiện cùng xẩy ra thời gian ,
tính chất khá giống nhau, nên bị coi là cùng một vụ việc mà không chú ý đến những
khía cạnh khác.
Đối chiếu với "Mối tình nồng
thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan" của Lương Ích Tân, "Hồi ký Trịnh
Siêu Lân", cùng với "Đài Loan nhật nhật tân báo" ngày 12 tháng
mười một năm 1938, thì thấy các tư liệu trong cả ba công trình nghiên cứu này đều
khẳng định sự kiện Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng Châu là có thật, đồng thời cũng
chứng minh ông là người thuộc sắc tộc Khách Gia quê quán Miêu Lật, Đài Loan:
"Năm 1931, Hồ Tập Chương trốn đến Quảng Châu, bị bắt giam trong một thời
gian ngắn". Năm 1946, Ngô Trọc Lưu có xuất bản cuốn tiểu thuyết bằng tiếng
Nhật "Hồ Chí Minh", đã viết về sự kiện này như sau: " Vào nửa
đêm, Hồ Chí Minh bị cảnh sát bắt đưa đến một gian phòng kín thẩm vấn, sau đó
gán tội danh gián điệp và bị giam giữ". Ngô Trọc Lưu miêu tả Hồ Chí Minh bị
bắt giữ chính là Hồ Tập Chương. Biết tin này, người em ruột của ông là Hồ Tập
Dưỡng đã thông báo cho gia tộc biết, Đó chính là người đến từ Miêu Lật, Đồng
La, Đài Loan, từng được truyền khẩu trong ký ức của gia đình chúng tôi.
Lương Ích Tân viết về sự kiện Hồ Chí
Minh bị bắt ở Quảng Châu
"Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí
Minh và Lâm Y Lan" của Lương Ích Tân, ở mục "Đảng sử thiên địa",
đăng tải tại nguyệt san số 12 "Nhân dân văn trích", năm 2004. Trong
thiên V nhan đề "Bài ca buồn về tình yêu và hôn nhân", tôi đã tường
thuật tóm tắt những sự việc có liên quan đến mối tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y
Lan.
Trong "Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y
Lan", Lương Ích Tân, ở phần "Lẩn trốn bị truy bắt ở Quảng Châu",
viết: "Đầu năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều quân truy bắt Hồng quân khu
Giang Tây Tô, đồng thời ra mệnh lệnh các địa phương khẩn trương tìm bắt các phần
tử cộng sản. Dương Thành Quảng Châu cũng không ngoại lệ. Thời kỳ này Hồ Chí
Minh đã đến Quảng Châu, thông qua liên lạc viên, nhờ Tỉnh ủy Quảng Đông giúp đỡ.
Tỉnh ủy bí mật Quảng Đông, do Đào Chú Làm bí thư, bố trí nữ đảng viên Lâm Y Lan
đóng giả làm vợ để bảo vệ ông khỏi bị bắt". Tiếp theo mục "Lâm Y Lan
chấp hành mệnh lệnh làm vợ", tác giả tường thuật: "Lâm Y Lan làm công
tác bảo vệ Hồ Chí Minh tại Quảng Đông, Hương Cảng, lấy danh nghĩa là vợ chăm
sóc Hồ Chí Minh rất chu đáo. Không lâu sau, do bị phản bội, Hồ Chí Minh bị bắt".
Tiếp đến "Trong hoạn nạn biết tấm lòng thành", đoạn văn kể: "Ba
ngày sau, Hồ Chí Minh được ra khỏi nhà giam, Lâm Y Lan nhìn đăm đăm vào gương mặt
hốc hác của Hồ Chí Minh nói: ' Chí Minh, huynh khổ sở quá! Vì sao không đợi muội
đến đón?". Theo những lời Lương Ích Tân kể trên, hẳn là đã quá rõ ràng, Hồ
Chí Minh, vào mùa hè năm 1931, bị Quốc dân đảng Quảng Châu bắt giữ.
Ngô Trọc Lưu được vinh danh là
"Người cha của nền văn nghệ Đài Loan", vào năm 1946, "Đài Loan
quốc hoa thư tịch" đã xuất bản bộ tiểu thuyết "Hồ Chí Minh" của
ông bằng tiếng Nhật (Ảnh bìa 1 phía dưới).
Nhan đề cuốn sách là "Hồ Chí Minh", sau được
đổi thành "Hồ Thái Minh", khi được chuyển sang Trung văn lại đổi là
"Đứa con côi châu Á". Bản "Hồ Chí Minh" bằng tiếng Nhật,
Ngô Trọc Lưu đã viết lời nói đầu, trong đó có đoạn làm người ta tỉnh ngộ:
"Thế giới ngày nay lại biến thành màu xám, nếu như muốn tìm tòi tận gốc của
nó, không nhất thiết phải sợ hãi những sự thật đã bị ẩn giấu. Chúng ta đòi hỏi
lịch sử phải được minh bạch. Cần phải xem việc lẩn tránh sự thật chính là xuyên
tạc lịch sử. Vì thế chúng ta nhất dịnh phải tìm hiểu sự thật trong quá khứ mới
mong có được lời giải".
"Hồ Chí Minh" là bộ tiểu
thuyêt được viết trong bối cảnh lịch sử Thế chiến thứ hai, khởi thảo năm 1943,
hoàn thành năm 1945, bối cảnh là thời kỳ Đài Loan bị Nhật chiếm đóng. Thời kỳ ấy,
bất cứ nhà văn nào cũng không dám lấy hiện trạng lịch sử đương đại để viết tiểu
thuyết, tuy nhiên, nếu chỉ dùng hình ảnh có tính ẩn dụ miêu tả thì vẫn được
phép.
Ở bản Trung văn "Đứa con côi châu
Á", thiên thứ ba có các chương: "Xuân lành", "Giam cầm",
Vượt ngục" v.v...có chen lẫn những đoạn Hồ Chí Minh trốn khỏi Quảng Châu
và Mối tình nồng thắm với Lâm Y Lan đều là những bằng chứng lịch sử. Viết tiểu
thuyết "Hồ Chí Minh", hẳn Ngô Trọc Lưu đặc biệt có ẩn ý là bảo tồn tư
liệu lịch sử, chứng minh Hồ Tập Chương là người Đài Loan, cũng chính là Hồ Chí
Minh. Trong "Hồ Chí Minh", các chi tiết đan xen nhau mà phần lớn kể
những chuyện cũ về gia tộc Hồ Tập Chương. Trước đây, Ngô Trọc Lưu và Hồ Tập
Chương rất quan biết nhau, sau này ông cùng với em trai Hồ Tập Chương là Hồ Tập
Dưỡng, cháu rể Hồ Tập Chương là La Lộc Xuân có mối quan hệ rất thân mật. Những
người này, trước sau đều là bạn đồng học trường Đại học Sư phạm Đài Bắc. vào
khoảng năm 1943, sau khi Ngô Trọc Lưu biết tin Hồ Tập Chương đổi tên thành Hồ
Chí Minh, trong đầu chợt nảy ra ý tưởng viết cuốn tiểu thuyết này để bảo tồn một
thời kỳ bí mật của lịch sử.
Ảnh trên: "Người cha của văn nghẹ
Đài Loan" Ngô Trọc Lưu, viết năm 1946. Bìa tiểu thuyết "Hồ Chí
Minh", bản tiếng Nhật, do "Đài Loan quốc hoa thư tịch" xuất bản,
gồm 4 thiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét